Avsnitt

  • Việt Nam chi khoảng 120 tỷ đồng, từ nguồn tài trợ và từ nguồn tài chính xã hội hóa, để tổ chức Triển lãm quốc phòng quốc tế lần thứ hai (19-22/12/2024). Đây là cơ hội để Việt Nam “chứng minh nền công nghiệp quốc phòng tự lực, tự chủ, tự cường, song vẫn sẵn sàng hợp tác với các nước có nền công nghiệp quốc phòng tiên tiến để học hỏi”, đặc biệt là những khách mời quan trọng như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Israel, Pháp, Anh, Tây Ban Nha.

    Việc tổ chức triển lãm quốc phòng là một thay đổi lớn trong quân đội Việt Nam, thường vẫn khá bí mật. Triển lãm quốc phòng quốc tế lần này có ý nghĩa và tầm quan trọng như thế nào đối với quân đội Việt Nam ? Nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc, trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.

    RFI : Việt Nam tổ chức triển lãm quốc phòng lần thứ hai, từ 19-22/12/2024. Triển lãm này dường như trở thành hoạt động thông lệ hai năm một lần. Sự kiện có ý nghĩa như thế nào cho Việt Nam và bộ Quốc Phòng ? Hà Nội trông đợi gì từ các nhà cung cấp thiết bị quân sự quốc tế tham gia ?

    Nguyễn Thế Phương : Sự kiện này sẽ mang hai hàm ý. Thứ nhất là gửi thông điệp tới trong nước rằng Quân đội Việt Nam có đủ khả năng và đủ sức mạnh để có thể bảo vệ lợi ích và chủ quyền của Việt Nam ở trên biển cũng như trên bộ. Đây là thông điệp rõ ràng và là thông điệp quan trọng nhất mà thông qua cuộc triển lãm lần này, có thể đưa ra.

    Thứ hai là với nước ngoài. Ở đây có một điểm là từ trước đến nay, truyền thống Quân đội Việt Nam là khá bí mật, bí mật trong cả quá trình phát triển, trưởng thành, đặc biệt hơn là bí mật trong quá trình phát triển vũ khí. Khoảng 5 đến 10 năm trở lại đây, sau một số cuộc thảo luận nội bộ, có vẻ như đảng và quân đội nhất trí rằng, thông qua triển lãm quốc phòng, quân đội sẽ có thể giới thiệu một số năng lực cho nước ngoài biết và từ đó sẽ gia tăng khả năng tạo dựng hình ảnh, cũng như gia tăng khả năng chống chịu trước những sức ép từ bên ngoài, mà thuật ngữ chuyên môn gọi là “khả năng răn đe”.

    Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?

    Điểm thứ ba là hoạt động triển lãm sẽ giúp cho Việt Nam tiếp cận được các nhà thầu quốc phòng nước ngoài quan trọng, nhằm đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội theo hướng tăng cường mối quan hệ giữa quân đội và ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam với ngành công nghiệp quốc phòng của các quốc gia mà Việt Nam đang có mối quan hệ rất tốt. Điểm này cũng nằm trong chính sách được tiến hành từ 5, 6 năm trở lại đây, bởi vì chiến tranh Nga-Ukraina, rồi những vấn đề về tranh chấp, xung đột khắp thế giới cho thấy một trong những cái cốt lõi nhất để có thể giúp cho Việt Nam và quân đội Việt Nam giữ vững được năng lực bảo vệ chủ quyền, đó là tự chủ, hoặc theo một số người nói là “tự chủ chiến lược”.

    Việt Nam kỳ vọng gì ? Nếu thông qua những gì đã được công khai, rõ ràng triển lãm quốc phòng lần thứ 2 này có quy mô lớn hơn rất nhiều so với triển lãm quốc phòng lần thứ nhất. Nếu nhìn vào các quốc gia tham gia triển lãm quốc phòng, có thể thấy là hầu như tất cả các nền công nghiệp quốc phòng lớn đều có mặt, đặc biệt hơn là những nền công nghiệp quốc phòng có vẻ như đang đối đầu nhau, ví dụ Nga - Mỹ, Iran - Israel đều tham dự. Điều đó giúp cho Việt Nam mở rộng không gian tương tác với các nền công nghiệp quốc phòng khác nhau, qua đó học hỏi kinh nghiệm từ họ, đặc biệt là từ những nền công nghiệp quốc phòng có tính tự chủ cao, học hỏi thêm một số công nghệ quốc phòng mà từ trước tới nay Việt Nam chưa tiếp cận được, cũng như mở rộng mối quan hệ để có thể thúc đẩy hơn hợp tác về công nghiệp quốc phòng trong tương lai.

    Ngoài ra, cũng hoàn toàn có khả năng là trong triển lãm lần này, sẽ có một số hợp đồng quốc phòng giữa Việt Nam và các nước được công bố. Chưa biết cụ thể là như thế nào, nhưng khả năng đó cũng rất là cao.

    RFI : Theo thiếu tướng Lê Quang Tuyến, phó chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, trong triển lãm năm 2022, có 5 hợp đồng được ký kết và năm nay dự kiến sẽ có các hoạt động tương tự. Như anh đề cập, quân đội Việt Nam có khả năng ký một số hợp đồng. Vậy những hợp đồng này có thể sẽ liên quan đến những hạng mục nào ? Việt Nam trông đợi gì từ những hợp đồng này ?

    Nguyễn Thế Phương : Thực ra, ở thời điểm hiện tại, rất khó nêu ra cụ thể những hợp đồng đó là gì, nhưng chắc chắn nó sẽ liên quan tới quá trình hiện đại hóa quân đội, theo đó Việt Nam có thể mua thêm một số vũ khí, khí tài, ví dụ liên quan tới không quân và một số loại công nghệ và vũ khí, khí tài liên quan tới lục quân. Không hẳn là Việt Nam sẽ mua một vũ khí mới hoàn toàn, nguyên chiếc, mà có thể là những hợp đồng mang tính chuyển giao công nghệ, hoặc những cái tạm gọi là MOU - ý định thư hoặc nghị định thư - mà Việt Nam tham gia vào việc chế tạo một số bộ phận của các loại vũ khí nào đó. Đây cũng là những điểm cần nhắc tới, bởi vì, như đã nói, mục tiêu là cải thiện năng lực của ngành công nghiệp quốc phòng nội địa và sẽ phải liên quan tới một số loại công nghệ lõi và công nghệ nguồn.

    Đọc thêm : Hoa Kỳ và Việt Nam thảo luận về việc mua bán máy bay vận tải quân sự C-130

    Thông qua triển lãm lần này và có thể là một số hoạt động hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam và các đối tác khác, vấn đề chuyển giao công nghệ lõi, công nghệ nguồn, hoặc là Việt Nam tiếp cận một phần nào đó thông qua chuỗi sản xuất vũ khí, sẽ giúp cải thiện năng lực chế tạo của Việt Nam, bên cạnh việc Việt Nam có thể mua một số loại vũ khí hiện đại. Nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào những quân chủng, binh chủng mà Việt Nam mong muốn tiến thẳng lên hiện đại, ở đây sẽ có hải quân và không quân. Ngoài ra sẽ có một số MOU có thể liên quan tới những lực lượng khác, ví dụ tác chiến điện tử, hoặc là tình báo tín hiệu hoặc những vấn đề tương tự.

    RFI : Triển lãm quốc phòng cũng là dịp để giới thiệu đến các đối tác quốc tế những vũ khí, trang thiết bị do Việt Nam chế tạo, được nhấn mạnh là “có những vượt trội”. Ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện xuất khẩu những loại trang thiết bị quân sự nào ?

    Nguyễn Thế Phương : Theo một số thông tin gần đây, Việt Nam xuất khẩu một vài thứ khá đơn giản, ví dụ đạn dược, một số cấu phần của súng cho bộ binh và thuốc nổ. Hiện nay, vấn đề quan trọng nhất của một nền công nghiệp quốc phòng mà muốn phát triển một cách bền vững, đó là phải tìm hiểu và mở rộng thị trường cho sản phẩm quốc phòng đó. Triển lãm quốc phòng lần này cũng là dịp để Việt Nam có thể tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu, cũng như tìm hiểu thông lệ trong việc buôn bán, trao đổi các mặt hàng vũ khí quốc phòng với các đối tác, tại vì danh sách các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu hiện nay không phải là lớn lắm.

    Đọc thêm : Việt Nam gần như không nhập khẩu vũ khí trong năm 2023

    Ngoài đạn dược, các cấu phần của súng, thuốc nổ, thì lác đác đâu đó còn là những mặt hàng có liên quan tới tàu. Nhưng tàu ở đây không phải là Việt Nam tự làm mà là liên doanh với một công ty nước ngoài, cụ thể ở đây là Damen (Hà Lan). Đã có thông tin Việt Nam xuất khẩu một số dạng tàu chở quân và tàu đổ bộ cho một số nước ở châu Mỹ Latinh và châu Phi chẳng hạn, nhưng sản phẩm đó là sản phẩm liên doanh. Điều này phần nào đó cũng cho thấy rằng việc hợp tác giữa một công ty Việt Nam và một công ty nước ngoài trong việc xây dựng và chế tạo các loại vũ khí, khí tài là một bước đi đúng đắn, sẽ giúp cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình tiếp cận công nghệ và qua đó giúp cho các tổ hợp quốc phòng Việt Nam trưởng thành hơn.

    Sắp tới, tham vọng của Việt Nam là xuất khẩu một số loại vũ khí, khí tài công nghệ cao. Chẳng hạn trước đây Viettel cũng đã có hợp đồng tạm gọi là xuất khẩu một số “mô hình huấn luyện” cho các quốc gia như Indonesia, hoặc xuất khẩu các loại radar, máy bay không người lái. Triển lãm lần này cũng là dịp để họ tìm hiểu nhu cầu của thị trường về những sản phẩm công nghệ cao mà Việt Nam đã tự sản xuất được.

    RFI : Theo Reuters, Iran được cho là tham gia triển lãm quốc phòng ở Hà Nội trong khi nước này đang bị trừng phạt quốc tế. Tương tự, tập đoàn Nirinco Group của Trung Quốc, nằm trong danh sách trừng phạt của Mỹ. Liệu quyết định này có tác động đến hình ảnh của Việt Nam?

    Nguyễn Thế Phương : Thực ra, biện pháp trừng phạt đó sẽ liên quan tới việc mua sắm hơn là chỉ tham gia vào triển lãm. Họ đến Việt Nam mở gian hàng và họ có một số catalogue và trưng bày một số loại vũ khí hạng nhẹ. Điểm đó cũng không ảnh hưởng nhiều lắm tới “trừng phạt”. Trừng phạt là liên quan tới việc mua vũ khí của Iran, mua công nghệ của Iran, của Trung Quốc trong một số mảng cụ thể, chứ không phải là tất cả các mảng.

    Còn bảo là có ảnh hưởng tới hình ảnh hay không, thực ra cũng không ảnh hưởng mấy, bởi vì thông qua triển lãm này, Việt Nam còn gửi một thông điệp ngược lại. Chính sách đối ngoại của Việt Nam gần đây vẫn hay nói tới “ngoại giao cây tre”, cho nên việc mời cả Iran, Trung Quốc chứng tỏ rằng trong mảng an ninh quốc phòng nói riêng, Việt Nam chơi với tất cả các nước và đối xử với tất cả một quốc gia như nhau, bất kể là họ đang có đối đầu hay có căng thẳng.

    Đọc thêm : Các hãng công nghiệp quốc phòng Trung Quốc tham gia hội chợ vũ khí Việt Nam

    Riêng về trường hợp của Trung Quốc, từ khoảng một năm trở lại đây, giao lưu hợp tác quốc phòng giữa hai bên dày đặc hơn. Việc cho phép tập đoàn Norinco tham gia triển lãm quốc phòng cho thấy mối quan hệ an ninh quốc phòng song phương có một điểm đáng để nhắc tới, chứ không phải là buồn tẻ như từ trước tới nay. Còn việc Việt Nam có mua hay không hoặc mua như thế nào thì đó lại là chuyện khác, không bàn tới. Chưa kể rằng họ mang vũ khí tới triển lãm này không phải chỉ giới thiệu cho Việt Nam, mà còn cho các nước khác nữa, bởi vì Việt Nam mời đại diện của hầu như tất cả các nước Đông Nam Á và các nước mà có quan hệ với Việt Nam tới tham gia triển lãm. Các nước này có thể mua bán, họ sẽ đặt hợp đồng qua lại lẫn nhau, chứ không phải chỉ cho Việt Nam. Vấn đề này cũng nên hiểu rõ như vậy.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.

  • Lần thứ hai liên tiếp, Pháp tham gia Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam (từ 19-22/12/2024). Trong chuyến thăm Paris tháng 10/2024 của tổng bí thư Tô Lâm, kiêm chủ tịch nước lúc đó, Việt Nam và Pháp đã nâng quan hệ lên cấp cao nhất Đối tác chiến lược toàn diện và nhất trí "tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh". Để đạt được mục đích này, "hai bên quyết định tạo động lực mới cho hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng" với "các dự án mang tính cơ cấu".

    Có thể thấy mối quan hệ song phương trong lĩnh vực quốc phòng, được thiết lập từ thập niên 1990, không ngừng được củng cố. Hiện tại, Pháp - nước thứ 8 trên thế giới và là thành viên đầu tiên trong Liên Hiệp Châu Âu có mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam - tỏ thiện chí cung cấp cho Hà Nội trang thiết bị quốc phòng tân tiến, nhưng liệu Hà Nội đã sẵn sàng chưa ? Việt Nam và Pháp có thể tính đến những dự án có quy mô lớn hơn không ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.

    RFI : Ngày 07/10, trong chuyến công du Paris, tổng bí thư, chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm và tổng thống Pháp Emmanuel Macron thông báo thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Pháp-Việt Nam. Tuyên bố chung nhấn mạnh đến ngành công nghiệp quốc phòng. Vậy đâu là cơ hội cho cả hai nước ?

    Laurent Gédéon : Cơ hội có nhiều. Trước tiên tôi xin nhắc lại rằng Việt Nam hiện dành 8 tỷ đô la cho ngân sách quốc phòng, tương đương với 2% GDP của đất nước. Hà Nội có ý định tăng ngân sách quốc phòng hàng năm lên trung bình 5,5% để đạt đến 10,2 tỷ đô la vào năm 2029. Có thể thấy nỗ lực đó rất lớn và Việt Nam tự tạo phương tiện để tăng cường khả năng phòng thủ.

    Nhưng hiện giờ, chúng ta thấy các nhà cung cấp quân sự chính cho Việt Nam vẫn là Nga, Mỹ và trong chừng mực nào đó là Israel. Việt Nam cũng sản xuất một số vũ khí và trang thiết bị quân sự (chủ yếu do Viettel sản xuất, trong đó có một số thiết bị được cấp phép). Ngoài ra, quân đội Việt Nam vẫn được trang bị một phần thiết bị của Liên Xô có từ thập niên 1970 và 1980.

    Đọc thêm : Pháp khó “chen chân” vào thị trường vũ khí Việt Nam

    Trên thực tế, chúng ta thấy rằng Pháp gần như không bán vũ khí cho Việt Nam nếu loại trừ một số máy bay trực thăng Puma và radar giám sát ven biển do Thales sản xuất (loại SCORE 3000 và Coast Watcher 100) hiện được Hải quân Việt Nam sử dụng. Dường như cũng không có bất kỳ thiết bị nào có nguồn gốc từ Pháp trong bộ binh Việt Nam và không quân cũng không có máy bay Pháp. Do đó, có thể có những cơ hội hấp dẫn cho ngành công nghiệp quân sự về mặt hợp tác và trao đổi công nghệ.

    Nhưng phải nhắc đến vấn đề các mối ưu tiên. Rõ ràng là trong bối cảnh địa-chiến lược của Việt Nam, Hà Nội tập trung chú ý vào không gian biển, dù là bảo vệ khu vực ven biển hay các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa, nơi quân đội Việt Nam hiện diện. Do đó, có thể giả định rằng việc hợp tác và mua sắm thiết bị quân sự sẽ chủ yếu tập trung vào các thiết bị đáp ứng các yêu cầu trong khuôn khổ chiến lược đó. Về điểm này, một số công ty Pháp có thể đáp ứng được kỳ vọng của Việt Nam, đặc biệt là Thales, Safran và Airbus.

    ​​Nếu lấy ví dụ trường hợp Thales - tập đoàn rất chú ý vào xuất khẩu, người ta thấy rằng doanh nghiệp này cung cấp giải pháp trong ba lĩnh vực mà Hà Nội quan tâm : giám sát trên không và trên biển, tác chiến chống tàu ngầm và drone.

    Trong trường hợp giám sát trên không và trên biển, Thales có nhiều loại radar có thể rất phù hợp với nhu cầu của quân đội Việt Nam, bởi vì việc giám sát không phận và dự đoán các hành động của đối phương mang lại một lợi thế nhất định cho Việt Nam. Các mẫu được cung cấp, dù là radar tầm xa như GM 400α (Ground Master 400α), radar tầm trung như GM 200, hệ thống giám sát quang học như Artemis, hoặc hệ thống pháo chống drone trên biển và trên không (loại RapidFire), có thể được quân đội Việt Nam quan tâm.

    Đọc thêm : Tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam và tương quan hải quân trong khu vực

    Trong lĩnh vực tác chiến chống tàu ngầm cũng vậy. Đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, đã được Việt Nam xác định thông qua việc mua 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga vào những năm 2010. Việc mua tàu ngầm đã giúp Hà Nội tái lập cân bằng với quân đội Trung Quốc cũng được trang bị tàu ngầm. Đây lại cũng là lĩnh vực mà công ty Pháp có thể đáp ứng qua việc cung cấp các thiết bị chuyên dụng, như máy đo sóng âm và phao thủy âm, và rộng hơn là các hệ thống công nghệ cao dành riêng cho giám sát điện tử.

    Ngoài ra, còn có những cơ hội hợp tác liên quan đến drone, nhất là những loại drone có sức bền dành cho hoạt động tình báo và giám sát hàng hải như Watch Keeper của Thales và cả Patroller của Safran.

    Như chúng ta thấy, cơ hội phát triển liên kết trong lĩnh vực công nghiệp quân sự là không thiếu. Tuy nhiên các đối tác Pháp phải tính đến những nhu cầu và hạn chế cụ thể của Việt Nam. Đây cũng là một quyết định mang tính chính trị rõ ràng, nếu xét đến những hậu quả có thể xảy ra với Trung Quốc.

    RFI : Như ông đề cập một chút ở trên, khả năng bán tàu hộ vệ và drone Patroller cho Việt Nam cũng được một số chuyên gia nêu lên sau chuyến thăm Paris của tổng bí thư Tô Lâm. Liệu điều này có thể thực hiện được không nếu nhìn vào bối cảnh trong vùng hiện nay, cũng như mối quan hệ song phương Pháp-Việt ?

    Laurent Gédéon : Tôi đã đề cập đến drone Patroller, nhưng đúng, vấn đề tàu hộ vệ cũng rất đáng quan tâm bởi vì đây là một trường hợp mang đầy tính biểu tượng. Chúng ta biết hiện giờ Việt Nam có hai loại tàu hộ vệ, có nguồn gốc Liên Xô và Nga. Loại gần đây nhất có nguồn gốc từ Nga là tàu hộ vệ loại Gepard 3.9. Đây là những con tàu được thiết kế để tìm kiếm và chiến đấu với kẻ thù trên mặt nước, dưới nước và trên không. Nhiệm vụ chung của chúng là giám sát và bảo vệ lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

    Xin nhắc lại, vào tháng 03 và tháng 08/2011, Hải quân Việt Nam đã tiếp nhận 2 tàu hộ vệ Gepard 3.9 (đặt mua năm 2006, đóng tại Nga). Cuối năm 2011, Việt Nam ký hợp đồng đóng thêm hai tàu chuyên chống tàu ngầm. Hai tàu khác cũng được lên kế hoạch, nâng tổng số đơn đặt hàng lên thành 6tàu. Tuy nhiên, hai tàu cuối này hiện bị trì hoãn do các lệnh trừng phạt Nga do cuộc xung đột Ukraina. Ngoài tàu hộ tống Gepard 3.9, Việt Nam còn có 5 tàu hộ tống lớp Petya. Đây là những chiến hạm cũ, được đóng từ thời Liên Xô, có vai trò tác chiến chống tầu ngầm ở vùng nước nông.

    Đọc thêm : Biển Đông: Vụ tàu hộ vệ Quang Trung ở Bãi Tư Chính chỉ là kế nghi binh?

    Pháp có kinh nghiệm không thể phủ nhận được trong lĩnh vực thiết kế và sản xuất tàu khu trục nhỏ, bằng chứng là những tàu trong biên chế của Hải quân Pháp. Chúng được chia thành hai loại, tàu khu trục hạng nhất (lớp Horizon và Aquitaine) và tàu khu trục hạng hai (lớp Floréal và Lafayette). Hai loại này có chức năng khác và giá cũng khác nhau.

    Nhiệm vụ chính của tàu khu trục hạng nhất là tham gia phòng không cho đội tàu tác chiến, hoặc bảo vệ một khu vực hoặc một đoàn tàu khỏi các cuộc không kích hoặc tấn công bằng tên lửa. Tàu khu trục hạng hai là tàu giám sát, chủ yếu là tham gia tác chiến chống tàu.

    Cũng cần lưu ý rằng các tàu khu trục hàng hai sắp không còn được sử dụng, thay vào đó là một mẫu tàu tàng hình mới, được gọi là tàu khu trục phòng thủ và can thiệp (hoặc khinh hạm cỡ trung bình). Loại tàu này sẽ do tập đoàn Naval Group chế tạo.

    RFI : Giả sử Việt Nam có ý định mua tàu khu trục Pháp, đâu sẽ là trở ngại chính ?

    Laurent Gédéon : Đặt giả thuyết Việt Nam mua một tàu khu trục, vấn đề đặt ra sẽ là Việt Nam muốn đầu tư ngân sách bao nhiêu, bởi vì giá tàu khu trục hạng hai đời mới của Pháp chuyên phòng thủ và can thiệp có giá dao động từ 760 đến 800 triệu euro, còn tàu hạng nhất dao động trong khoảng 800 đến 950 triệu euro. Đó là số tiền rất lớn và sẽ được đem so sánh với tàu hộ tống Gepard 3.9 của Nga, có giá khoảng 350 triệu euro.

    Thêm vào đó là chi phí bảo dưỡng và chi phí cho thủy thủ đoàn, tổng chi phí dao động từ 500 đến khoảng 700 triệu euro trong 30 năm. Do đó, đây là một khoản đầu tư đáng kể khi biết rằng ngân sách quân sự của Việt Nam hiện vào khoảng 8 tỷ đô la và sẽ đạt 10 tỷ đô la vào năm 2029.

    Để khoản đầu tư được xứng đáng, những tàu khu trục này sẽ phải mang lại giá trị thặng dư chắc chắn về mặt chiến lược và đáp ứng những nhu cầu về khả năng mà các tàu Gepard 3.9 hiện tại không thể hoặc không còn đáp ứng được. Về vấn đề này, chúng ta vẫn chưa có câu trả lời để đánh giá xem liệu Việt Nam có quan tâm đến một thỏa thuận mua bán đắt đỏ như vậy với Pháp hay không.

    Đọc thêm : Pháp bán vũ khí cho Đài Loan: Paris bác bỏ phản đối của Bắc Kinh

    Ngoài ra, tàu khu trục vẫn là một vấn đề nhạy cảm đối với Pháp, cả về mặt địa-chính trị và biểu tượng trong khu vực, bởi vì người ta chưa quên những căng thẳng gay gắt nảy sinh giữa Paris và Bắc Kinh sau thương vụ bán sáu tàu khu trục lớp Lafayette cho Đài Loan vào năm 1991. Dĩ nhiên trường hợp của Việt Nam khác với Đài Loan. Nhưng trong bối cảnh và mối quan hệ hiện vẫn tế nhị giữa Hà Nội và Bắc Kinh, việc Pháp bán tàu khu trục cho Việt Nam có thể sẽ gợi lại cho Trung Quốc những kỉ niệm không tốt đẹp cho lắm và có thể sẽ khiến Bắc Kinh phản ứng về vấn đề này.

    RFI : Người ta cũng nhắc đến việc Paris nhấn mạnh đến hợp tác hàng hải, với việc tàu Pháp tăng số lần ghé thăm cảng Việt Nam trong những năm gần đây. Liệu đây có phải là một mảng hợp tác, trao đổi chuyên môn để hỗ trợ Hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam trong tương lai không ?

    Laurent Gédéon : Cần phải nhớ rằng trong bối cảnh địa chính trị khu vực, được đánh dấu bằng sự cạnh tranh Trung-Việt đối với các quần đảo ở Biển Đông, câu hỏi được đặt ra đối với bất kỳ hoạt động bán vũ khí nào cho Việt Nam hoặc bất kỳ sáng kiến ​​quân sự nào của Pháp, hoặc từ bên ngoài, đó là Bắc Kinh có thể diễn giải việc đó theo cách nào. Bất kỳ chuyến hải hành nào của Hải quân Pháp qua Biển Đông đều khiến Trung Quốc có phản ứng ít nhiều tiêu cực và kịch liệt, tùy theo hoàn cảnh. Chắc chắn các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của cả Pháp và Việt Nam đều chú ý đến điều này.

    Đọc thêm : Lần đầu tiên, Pháp và Philippines cùng diễn tập không quân ở Ấn Độ-Thái Bình Dương

    Tuy nhiên, tàu chiến Pháp vẫn thường xuyên tổ chức hoạt động lưu thông trong khuôn khổ chiến dịch FONOP nhằm khẳng định sự tôn trọng luật hàng hải quốc tế và thách thức các yêu sách lãnh thổ bị coi là quá đáng của Trung Quốc. Chúng ta nhớ lại rằng vào năm 2021, tàu khu trục Vendémiaire của Pháp đã tuần tra gần quần đảo Trường Sa ; năm 2022, Pháp cũng tham gia cuộc tập trận hải quân đa phương La Pérouse, phối hợp với Mỹ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ ở Ấn Độ Dương và Biển Đông ; và vào tháng 04/2024, lần đầu tiên Pháp tham gia cuộc tập trận Balitakan của Philippines.

    Do đó, sự hiện diện của Pháp trong khu vực không hề mang tính trung lập và bản thân việc các tàu Pháp cập cảng Việt Nam đã thể hiện một hành động chính trị. Cho nên có thể coi tần suất thăm cảng có tăng hay không còn phụ thuộc vào những cân nhắc ngoại giao về yếu tố Trung Quốc.

    Tóm lại, để trả lời câu hỏi trên, thì đúng, việc tàu Pháp tăng cường ghé thăm cảng Việt Nam sẽ thể hiện niềm tin song phương ngày càng cao và có thể dẫn đến hợp tác và trao đổi chuyên môn nhằm phát triển năng lực và kinh nghiệm của Hải quân, và đặc biệt là của Cảnh sát biển Việt Nam.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.

  • Saknas det avsnitt?

    Klicka här för att uppdatera flödet manuellt.

  • Trong những năm gần đây, Hà Nội đã tăng tốc bồi đắp các đảo mà Việt Nam đang kiểm soát quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Hiện giờ Trung Quốc vẫn chưa có phản ứng gì, nhưng về lâu dài, vấn đề này có thể sẽ làm gia tăng căng thẳng giữa Hà Nội với Bắc Kinh.

    Vào năm 2013, Trung Quốc đã bắt tay vào một chương trình bồi đắp đảo quy mô lớn tại quần đảo Trường Sa, xây dựng cả cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự, bao gồm đường băng sử dụng vào mục đích quân sự, trạm radar, bến cảng và nhà ở cho quân đội. Bắc Kinh khẳng định các cơ sở đó được xây dựng trên các thực thể mà họ kiểm soát và hành động của họ là "hợp pháp và chính đáng".

    Trong bài viết đề ngày 24/10/2024 đăng trên trang mạng của Trung tâm Truyền thông Châu Á ( Asia Media Centre ), nhà báo người Philippines Carla Teng, cố vấn truyền thông của trung tâm này, ghi nhận: “ Tại vùng Biển Đông đang có tranh chấp gay gắt, Việt Nam nay đã có cách tiếp cận quyết đoán hơn, mở rộng sự hiện diện quân sự thông qua các sáng kiến ​​xây dựng đảo chiến lược. Chiến thuật này là một phần trong mục tiêu lớn hơn của Việt Nam nhằm củng cố các yêu sách lãnh thổ của mình trong khu vực, áp dụng các phương pháp tương tự như cách tiếp cận hung hăng của Trung Quốc”.

    Tác giả bài viết nhắc lại nhật báo Mỹ The Wall Street Journal gần đây đã nêu bật sự bành trướng nhanh chóng của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, cho thấy đất nhân tạo trong khu vực đã tăng gấp mười lần trong ba năm qua, dựa trên hình ảnh vệ tinh có độ phân giải cao của Maxar Technologies.

    Nhật báo Mỹ nêu chi tiết về việc xây dựng các bến cảng, chiến hào phòng thủ và có thể là các đường băng được mở rộng để sử dụng vào mục đích quân sự. Tờ báo lưu ý rằng những hành động này rất giống với các dự án xây dựng đảo nhân tạo trước đó của Trung Quốc, bao gồm cơ sở hạ tầng quân sự? như tháp quan sát và đường băng.

    Tổ chức Sáng kiến ​​Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) vào tháng 6/2024 cho biết Việt Nam đã bồi đắp thêm 692 mẫu Anh ( acre ), tương đương với khoảng 2.770 km2, vào 10 thực thể kể từ tháng 11 năm 2023, nâng tổng diện tích bồi đắp đất lên khoảng 2.360 mẫu Anh, tức là khoảng một nửa so với 4.650 mẫu Anh của Trung Quốc. Điều này đánh dấu sự thay đổi đáng kể so với tổng diện tích trước đó của Việt Nam chỉ là 329 mẫu Anh cách đây ba năm.

    Một ví dụ cụ thể đó là vào tháng 9/2020, sự hiện diện của Việt Nam trên rạn san hô Đá Thuyền Chài ( Barque Canada Reef ) chỉ giới hạn ở ba tiền đồn nhỏ trên các bệ bê tông. Đến tháng 8/2024, sau khi nạo vét sâu rộng, rạn san hô này đã trở thành thực thể lớn nhất của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.

    Tương tự như thế: Vào tháng 3/2021, Đảo Namyit trải dài 13 mẫu Anh trong một rạn san hô dài hai dặm. Đến tháng 6/2024, sau khi tiến hành công trình lớn, nó đã trở thành một trong những thực thể lớn nhất của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, với một bến cảng lớn được nạo vét ở trung tâm.

    Trả lời RFI Việt ngữ ngày 31/10/2024, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt cũng ghi nhận:

    "Những hình ảnh vệ tinh của một số trang như trang của CSIS ( Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ) cũng đã cho thấy rõ ràng khả năng này là hoàn toàn có. Phía Việt Nam không đưa thông tin nhiều, nhưng cũng không phản bác thông tin từ những trang đó.

    Thật ra việc Việt Nam phải tôn tạo những đảo mà họ kiểm soát là chuyện bình thường, bởi vì thứ nhất là các công trình trên biển có tuổi thọ không lớn, do sự tàn phá của môi trường biển, nước biển, gió biển mang hàm lượng muối cao, cho nên nhiều thực thể dễ bị sụp đổ. Trong quá khứ, các dàn khoan dầu khí của Việt Nam cũng đã bị sụp đổ nhiều lần rồi, cho nên cứ sau một thời gian là phải tôn tạo. Đó là chuyện bình thường.

    Thứ hai, có lẽ Việt Nam không làm giống như Trung Quốc, tức là quân sự hóa các thực thể mà Việt Nam đang chiếm giữ. Cái quan trọng là Việt Nam muốn phát triển các thực thể đó thành những cứ điểm để có thể cứu nạn, cứu hộ cho những ngư dân Việt Nam trên biển. Điều này cũng sẽ giúp Việt Nam tăng cường sức mạnh về cảnh sát biển, bởi vì các lực lượng trong đó có cảnh sát biển và lực lượng kiểm ngư của Việt Nam cũng cần phải giám sát các vùng biển để bảo vệ chủ quyền, đồng thời ngăn chận ngư dân đánh bắt bất hợp pháp trên vùng biển của những quốc gia khác.

    Cho nên mục tiêu của Việt Nam không phải là quân sự hóa, tức là đặt các cơ sở quân sự trên những đảo đó như Trung Quốc đã làm, mà thật ra thì Việt Nam cũng đâu có đủ tiềm lực để làm. Việt Nam chỉ tôn tạo những đường cho kiên cố hơn, hoặc là, theo tin của báo chí Mỹ, xây dựng các đường băng để tiếp tế hoặc sử dụng cho những trường hợp khẩn cấp, cấp cứu trên đảo. Máy bay hạ cánh xuống thì dễ hơn, chứ còn đi tàu thì rất lâu."

    Hà Nội cho tới nay vẫn im lặng về các nỗ lực cải tạo của Việt Nam, về mặt chính thức mô tả đó là các dự án nhỏ để xây dựng nơi trú bão cho ngư dân và ngăn chặn xói mòn.

    Nhưng một báo cáo tháng 9/2024 của John Pollock và Damien Symon, Viện Chatham House của Anh Quốc, cho rằng việc mở rộng của Việt Nam là một hành động chiến lược nhằm củng cố vị thế của mình trong các tranh chấp biển đảo với Trung Quốc và các quốc gia khác trong khu vực. Họ cũng suy đoán rằng Việt Nam sẽ sớm triển khai máy bay quân sự tầm xa tại các tiền đồn của mình, cho thấy sự quân sự hóa mạnh hơn nữa.

    Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 25/10/2024 trích dẫn báo cáo của tổ chức Sáng kiến thăm dò tình hình chiến lược Biển Đông ( South China Sea Probing Initiative - SCSPI) cho biết chỉ trong 5 tháng qua, Việt Nam đã bồi đắp thêm hơn 2 km2 tại quần đảo Trường Sa ( mà Trung Quốc gọi là Nam Sa ). Như vậy là Hà Nội đã nâng cấp tổng cộng 11 trên 26 thực thể mà Việt Nam kiểm soát, những thực thể mà Bắc Kinh cũng khẳng định chủ quyền.

    Theo lời ông Hồ Ba ( Hu Bo ), giám đốc SCSPI, “Hà Nội đã liên tục mở rộng các thực thể mà họ chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa kể từ những năm 1970… và việc mở rộng đã có sự gia tăng đáng kể cả về tốc độ lẫn quy mô kể từ đợt mở rộng mới nhất bắt đầu vào tháng 10/2021”.

    Ông Trần Tương Miểu (Chen Xiang Miao), một nghiên cứu viên cộng tác tại Viện Nghiên cứu Nam Hải Quốc gia, trụ sở tại Hải Nam, cho biết Việt Nam đặt mục tiêu tận dụng việc xây dựng đảo của mình để tăng cường kiểm soát quần đảo Trường Sa, vì có khả năng thiết lập sự hiện diện liên tục của các tàu thực thi pháp luật trên biển và mở rộng việc triển khai các cơ sở quân sự tại đó.

    Ông cho biết: “Trước đây, Hà Nội duy trì một số lượng hạn chế các căn cứ ở quần đảo Trường Sa, chỉ có khả năng tiếp nhận các tàu nhỏ. Tuy nhiên, với những nâng cấp gần đây đối với các cơ sở cảng, Việt Nam đang sẵn sàng duy trì sự hiện diện liên tục của lực lượng thực thi pháp luật hàng hải, điều này sẽ tăng cường đáng kể quyền kiểm soát của Việt Nam đối với toàn bộ khu vực Trường Sa”.

    Theo ông Trần Tương Miểu, “những nâng cấp gần đây đối với các tiền đồn đã nâng cao năng lực của Việt Nam trong việc tiếp nhận các tàu lớn - từ hàng ngàn đến gần 10 ngàn tấn - cho thấy tiềm năng của họ về việc neo đậu tàu quân sự trong tương lai”. Ông cho biết các công trình phòng thủ đang được xây dựng doanh trại, pháo binh và các cơ sở quân sự khác.

    Dĩ nhiên, đối với nhà nghiên cứu Trung Quốc này, những nỗ lực nói trên của Việt Nam là nhằm chiếm đóng "bất hợp pháp và vĩnh viễn" các thực thể đó và như vậy sẽ đặt ra thách thức đáng kể đối với Trung Quốc, vì có thể thúc đẩy các hành động tương tự từ Philippines và các quốc gia khác cũng có yêu sách chủ quyền trên Biển Đông.

    Mặc dù đã có thái độ rất cứng rắn với Philippines trong các tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc cho tới nay vẫn im lặng một cách đáng chú ý về các hoạt động của Việt Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích:

    "Gần đây có một số bài báo của các nhà phân tích nói đến việc tại sao Trung Quốc phản ứng gần như là im ắng trước việc Việt Nam tôn tạo một số thực thể như vậy, trong khi Trung Quốc lại rất căng thẳng với Philippines.

    Thứ nhất, Trung Quốc không phản đối bởi vì Trung Quốc mới là xây nhiều. Việt Nam chắc là không bao giờ theo kịp Trung Quốc trong việc tôn tạo các thực thể trên Biển Đông. Trung Quốc còn quân sự hóa các đảo đó, biến thành những tiền đồn. Việt Nam thì chắc là sẽ không có các tiền đồn. Cá nhân tôi có một lần đến Trường Sa thì thấy chủ yếu là dân, chứ không có nhiều căn cứ quân sự kiên cố, chủ yếu chỉ có một số vũ khí để đề phòng thôi, chứ không phải là những tiền đồn ghê gớm như của phía Trung Quốc.

    Thứ hai, có lẽ Việt Nam cũng khéo léo chọn thời điểm mà Trung Quốc cũng đang muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam và Việt Nam cũng đang cố gắng giữ quan hệ với Trung Quốc ở mức tốt đẹp để phía Trung Quốc không có phản ứng nhiều trong trường hợp này."

    Các chuyên gia cho rằng sự khác biệt trong thái độ của Bắc Kinh là do Trung Quốc duy trì trao đổi chặt chẽ với ban lãnh đạo mới của Việt Nam sau những thay đổi nhân sự cấp cao.

    Ngày 21/10/2024, tướng quân đội Lương Cường đã được Quốc Hội bầu làm chủ tịch nước mới, để kế nhiệm ông Tô Lâm, sau khi đi thăm Trung Quốc và hội kiến chủ tịch Tập Cận Bình. Trong cuộc gặp này, hai bên đã tái khẳng định cam kết tăng cường quan hệ giữa hai nước. Trước đó, tổng bí thư Tô Lâm đã đến thăm Trung Quốc vào tháng 8 trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi nhậm chức. Trong chuyến đi đó, ông đã cam kết giải quyết tranh chấp chủ quyền Biển Đông thông qua đối thoại.

    Sau khi dự một diễn đàn khu vực tại Lào, Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường đã đến Việt Nam để thảo luận với tổng bí thư Tô Lâm và thủ tướng Phạm Minh Chính, tạo cơ hội cho Bắc Kinh hàn gắn quan hệ với Việt Nam. Trong văn bản tuyên bố, Bắc Kinh và Hà Nội cam kết "kiềm chế không thực hiện các hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp". Ngoài ra, họ đã nhất trí khởi xướng các dự án phát triển hàng hải chung ở những khu vực ít nhạy cảm và cải thiện tương tác giữa các lĩnh vực quốc phòng và an ninh của họ.

    Theo chuyên gia La Lượng (Luo Liang), thuộc Viện Nghiên cứu Nam Hải Quốc gia, “những cuộc gặp gỡ thường xuyên giữa các quan chức cấp cao và các kênh liên lạc cởi mở, thông suốt giữa Trung Quốc và Việt Nam đã giúp giải quyết hiệu quả các bất đồng trên biển, giúp giảm thiểu tác động bất lợi đến quan hệ song phương”.

    Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, Bắc Kinh chưa muốn làm căng với Hà Nội về vấn đề bồi đắp các đảo cũng là do Trung Quốc đang cố hòa hoãn với Việt Nam, hay đi xa hơn là cố giữ Việt Nam trong vòng ảnh hưởng của mình:

    “Không phải bây giờ, mà từ xưa, Trung Quốc luôn giữ Việt Nam trong vòng cương tỏa, trong ảnh hưởng của mình. Xem lại hàng ngàn năm lịch sử, Trung Quốc biến Việt Nam thành một dạng thuộc địa hay chư hầu của mình. Với vị thế của Trung Quốc muốn trở thành một cường quốc lớn ở khu vực châu Á và của cả thế giới, đương nhiên Trung Quốc muốn các nước khu vực phải dưới sự chỉ đạo, kiểm soát của Trung Quốc.

    Phía Việt Nam thì hiểu rằng, Trung Quốc là một cường quốc mà lại là một láng giềng của Việt Nam, cho nên Việt Nam phải khéo léo phần nào. Nhưng Việt Nam cũng đang cố gắng tìm cách cân bằng, để không bị lệ thuộc vào Trung Quốc, qua việc thúc đẩy quan hệ với các quốc gia mà có khi lại là đối thủ của Trung Quốc, như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, cũng là những nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Thật ra thì Việt Nam cũng có mối quan hệ truyền thống với Nga, mà Nga - Trung là một mối quan hệ phức tạp, có những lúc hợp tác, có những lúc cạnh tranh. Chắc chắn là Trung Quốc sẽ luôn tìm mọi cách để Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc, nhưng làm được hay không thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố Việt Nam rất nhiều.”

    Tuy nhiên, nhật báo Hồng Kông South China Morning Post trích dẫn một số nhà phân tích cho rằng cho dù hai bên đã mở các kênh liên lạc để quản lý các tranh chấp, những bất đồng căn bản giữa hai nước láng giềng vẫn còn đó.

    Theo một phó giáo sư tại Quảng Châu chuyên về Biển Đông, xin được giấu tên, các hành động kiên quyết của Việt Nam trong việc bảo vệ các yêu sách của mình đang làm phức tạp thêm các nỗ lực trong tương lai của Trung Quốc nhằm khẳng định các quyền của họ ở Biển Đông. Theo học giả này, các cuộc đối đầu trên biển giữa Bắc Kinh và Hà Nội không chỉ dai dẳng, mà còn có khả năng leo thang trong tương lai, như vụ xảy ra trong tháng 10: Việt Nam cáo buộc Trung Quốc tấn công 10 ngư dân Việt Nam, khiến ba người bị gãy chân tay, ngư cụ bị hư hại và hải sản bị tịch thu.

    Có lẽ là để có thể tập trung đối phó với Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông, Việt Nam đã cố dàn xếp với Malaysia, khi Kuala Lumpur, theo tin Reuters ngày 04/11/2024, gởi một lá thư khiếu nại đến Hà Nội, cáo buộc Việt Nam mở rộng một đảo nhỏ ở quần đảo Trường Sa mà cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền.

    Theo báo chí Việt Nam, phát biểu trong cuộc họp báo chung với thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim tại Putrajaya nhân chuyến thăm Malayisa ( 21-23/11), tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm cho biết Việt Nam và Malaysia đã nhất trí "tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn để duy trì hòa bình ở Biển Đông". Hai nhà lãnh đạo cũng cam kết "tiếp tục hợp tác chặt chẽ với nhau để duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và thúc đẩy giải quyết hòa bình các tranh chấp". Theo lời thủ tướng Anwar, hai bên còn đã "đồng ý tìm kiếm khả năng cùng nỗ lực trong ngành đánh bắt cá để thực sự có thể làm việc trên cơ sở tin tưởng và hữu nghị". Không những thế, nhân chuyến đi của ông Tô Lâm, Việt Nam và Malaysia đã đồng ý nâng cấp quan hệ song phương lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện

  • Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua. “Trong 10 tháng năm 2024, thương mại Việt-Mỹ đạt gần 111 tỷ đô la, trong đó tăng mạnh mẽ hơn ở chiều xuất khẩu với kim ngạch gần 98,5 tỷ đô la, tăng 24,2% so với cùng kỳ”, theo báo Đầu Tư ngày 06/11. Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ sẽ sớm vượt ngưỡng 100 tỷ đô la, sau khi cũng ở mức khoảng 100 tỷ năm 2023. Mỹ chiếm hơn 1/4 tổng khối lượng xuất khẩu của Việt Nam.

    Những con số này sẽ không làm tân tổng thống Donald Trump hài lòng. Ông vẫn tuyên bố sẽ “mang việc làm về Mỹ”, tăng thuế hải quan 20% đối với mọi mặt hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ, riêng với hàng Trung Quốc ít nhất là 60%. Việt Nam có thể sẽ là một trong những nước ở châu Á bị tác động nặng nề nhất, theo nhận định của nhiều chuyên gia, được Japan Times trích dẫn ngày 12/11, do thặng dư thương mại với Mỹ quá lớn, gấp đôi so với nhiệm kỳ đầu của ông Trump. Ngoài ra, Việt Nam chưa hẳn đã được hưởng lợi lớn trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, được cho là sẽ trầm trọng hơn dưới thời ông Trump.

    Đọc thêm : Nếu đắc cử tổng thống, Trump sẽ lại "sờ đến" đến thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ

    Việt Nam, “kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất” theo cách gọi của ông Trump, đang từng bước chuẩn bị đối sách. Ngay ngày 07/11, khi có số liệu chính xác về kết quả bầu cử, tổng bí thư Tô Lâm, chủ tịch nước Lương Cường và thủ tướng Phạm Minh Chính đã gửi điện chúc mừng, khẳng định “Việt Nam coi Hoa Kỳ là đối tác có tầm quan trọng chiến lược”. Đến ngày 11/11, theo báo Chính phủ, tổng bí thư Tô Lâm đã điện đàm với ông Donald Trump, “đánh giá cao những đóng góp của tổng thống đắc cử trong quá trình phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ”. Ông “cũng trao đổi với tổng thống đắc cử Donald Trump về một số phương hướng lớn nhằm tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và nhu cầu”.

    Ngoài ra, phải kể đến một sự kiện trùng hợp, có thể giúp Việt Nam “ghi điểm” trong mắt tổng thống tân cử Mỹ: Một tháng trước cuộc bầu cử, ngày 08/10/2024, công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc thông báo tập đoàn Trump (Trump Organization) đã đồng ý đầu tư xây dựng tổ hợp khách sạn, sân golf cao cấp tại tỉnh Hưng Yên, quê nhà của tổng bí thư Tô Lâm cũng như của những người thân cận với ông.

    Đọc thêm : Dự án tỷ đô tại quê nhà của tổng bí thư Tô Lâm, lá bài trói buộc Trump của Việt Nam ?

    Việt Nam sẽ còn phải có những đối sách nào khác trong khi rất phụ thuộc vào thương mại trên thế giới, xuất khẩu chiếm khoảng 85% nền kinh tế và Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của Việt Nam ? Giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ, trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt về chủ đề này.

    RFI : Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ sẽ vượt qua 100 tỷ đô la Mỹ vào năm 2024. Ông Donald Trump từng gọi Việt Nam là “kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất” vào thời điểm mà thặng dư chỉ bằng một nửa hiện nay. Việt Nam sẽ chịu những tác động như thế nào nếu ông Trump thực hiện lời đe dọa nâng thuế nhập khẩu và “rờ” đến những nước xuất siêu sang Mỹ, trong đó có Việt Nam ?

    Alexander Vuving : Tôi nghĩ là nếu chính quyền Trump áp thuế xuất nhập khẩu vào hàng hóa của Việt Nam thì đương nhiên nó sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng ảnh hưởng nhiều hay ít thì phụ thuộc vào tỉ lệ mà người ta áp thuế. Ví dụ áp thuế 1-2% khác với cả áp thuế 5-7% và khác với cả áp thuế 10-15%. Bây giờ cũng không thể biết được là chính quyền Trump sẽ áp thuế đến mức độ nào.

    Thứ hai, cũng không biết là họ sẽ áp thuế những mặt hàng nào. Có thể họ sẽ áp toàn bộ các mặt hàng ở một mức nào đó. Nhưng khả năng là có thể cho tất cả các nước, cũng có thể là chỉ tùy mặt hàng. Ảnh hưởng đến xuất khẩu Việt Nam chắc chắn là sẽ có, nhưng nhiều hay ít thì chưa thể nói được, vì nó còn phụ thuộc vào những số liệu cụ thể mà người ta sẽ đưa ra.

    Các doanh nghiệp Việt Nam, khi mà thị trường của Mỹ eo hẹp như vậy, đương nhiên sẽ phải tìm những thị trường khác. Những thị trường tương đương với Mỹ, để xuất hàng hóa tương đương với Mỹ, thì khả năng lớn sẽ là những thị trường phía châu Âu. Cũng có thể là cả một số thị trường khác ở những nước đang phát triển hoặc cũng có những nước Trung Đông, nhưng chủ yếu chắc sẽ là những thị trường châu Âu.

    Đọc thêm : Việt Nam mua vũ khí lớn của Mỹ: Bước ngoặt trong quan hệ quốc phòng song phương?

    Ngoài ra, chính phủ Việt Nam cũng sẽ có những phản ứng, chẳng hạn tìm cách xoa dịu Mỹ bằng cách có thể là hối thúc các doanh nghiệp Việt Nam mua thêm hàng của Mỹ để cân bằng lại cán cân thương mại. Hoặc là sẽ có những động thái nào đó, có thể không thuộc phạm trù kinh tế, để xoa dịu Mỹ và cho thấy là Việt Nam có những thiện chí đối với Mỹ, để từ đó làm cho họ giảm thuế suất đi chẳng hạn. Thậm chí rất có thể Việt Nam cũng nghĩ đến chuyện mua vũ khí của Mỹ và lấy cái đó để làm một đòn bẩy nhằm giảm mức độ Mỹ áp những chính sách khó khăn về kinh tế đối Việt Nam.

    Từ phía các nhà đầu tư chẳng hạn thì tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng mà họ sẽ phải đi tìm những nơi khác để đầu tư, bởi vì họ xem những chỗ nào đầu tư có lãi hơn. Nói chung là hoàn toàn phụ thuộc rất nhiều vào những con số cụ thể.

    RFI : Việt Nam bị coi trở thành trung gian cho các sản phẩm của Trung Quốc nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Biện pháp này được sử dụng rất nhiều. Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro nào trong trường hợp chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ xảy ra và có thể trầm trọng hơn dưới thời tổng thống Donald Trump, cùng với lời đe dọa của ông là đánh thuế hải quan lên đến 60% đối với sản phẩm của Trung Quốc?

    Alexander Vuving : Vâng, cái này cũng phụ thuộc vào việc chính quyền Trump sẽ nhìn nhận như thế nào. Họ sẽ đánh giá mức độ mà Việt Nam làm “trung gian” để đưa hàng Trung Quốc sang Mỹ. Tôi nghĩ là họ sẽ gây áp lực về vấn đề đó, bởi vì trên thực tế, có nhiều mặt hàng mà mức độ “xử lý” ở Việt Nam không nhiều, chủ yếu là hàng từ Trung Quốc, sau đó được xử lý một chút, rồi dán mã Việt Nam và đưa sang Mỹ.

    Đọc thêm : Chiến tranh thương mại với Mỹ : Những bước chuẩn bị của châu Á

    Thế thì người ta sẽ điều tra ra sao? Thứ nhất là nếu không điều tra được thì họ sẽ đánh thuế theo mức độ “mặc định” và nhiều khả năng là nó sẽ quá lớn, có hại cho Việt Nam. Thứ hai, trong vấn đề này, chính quyền Việt Nam cũng có thể tìm cách hợp tác với Mỹ, để cho Mỹ thấy rằng họ có thiện chí trong việc hạn chế những luồng “thương mại trung gian”, tức là đi từ Trung Quốc sang rồi xử lý phết phẩy một chút ở Việt Nam và đưa sang Mỹ, hoặc trong vấn đề “kiểm soát đầu tư” của Trung Quốc ở Việt Nam, để nâng cao tính nội địa của Việt Nam.

    Tôi nghĩ chắc chắn là Việt Nam sẽ tìm cách tỏ thái độ thiện chí và hợp tác với Mỹ, để từ đó phía chính quyền Trump sẽ giảm mức độ trừng phạt. Có thể thấy là còn phụ thuộc rất nhiều. Chính quyền Trump sử dụng cái gì thì mình cũng không biết được, bởi vì họ không theo những mô hình mà mình đã thấy từ trước.

    RFI : Việt Nam được cho là hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung trong những năm, qua nhưng cuộc chiến này có lẽ sẽ còn nghiêm trọng hơn dưới thời Trump nhiệm kỳ 2. Liệu Việt Nam có tiếp tục được hưởng lợi nữa hay không ?

    Alexander Vuving : Chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc khả năng rất lớn là sẽ xảy ra trong thời của ông Trump. Và như thế Việt Nam đương nhiên là sẽ hưởng lợi, bởi vì vị trí của Việt Nam khiến cho Việt Nam có thể thành một trong những nơi được hưởng lợi lớn nhất. Hễ có xung đột thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc thì Việt Nam sẽ được hưởng lợi.

    Đọc thêm : Việt Nam : Nắm cơ hội, sửa điểm yếu để thu hút doanh nghiệp rời Trung Quốc

    Lợi ít hay lợi nhiều thì còn phụ thuộc vào việc Mỹ sẽ có những trừng phạt nhất định đối với những kẻ mà họ cho là hưởng lợi một cách “không chính đáng”. Cho nên điều này còn phụ thuộc vào sự trừng phạt của Mỹ là mạnh hay yếu. Cho Việt Nam đương nhiên hưởng lợi chừng nào có chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng sự hưởng lợi này sẽ đi kèm với sự “bị trừng phạt”. Và “sự trừng phạt” thì như đã nói ở trên, mức độ có thể nhiều hoặc ít.

    RFI : Quy chế nền kinh tế thị trường mà Việt Nam kêu gọi Mỹ trao cho từ lâu liệu sẽ không được thực hiện ngay dưới thời của ông Donald Trump ?

    Alexander Vuving : Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy. Tức là về vấn đề quy chế thị trường, nếu nói về những tiêu chí một cách khách quan, thì khả năng lớn là Việt Nam không đạt được, bởi vì mức độ can thiệp của nhà nước vào thị trường ở Việt Nam là có hệ thống.

    Sự can thiệp này không chỉ có hệ thống mà còn nằm trong chủ trương, chính sách. Chủ trương, chính sách của Việt Nam, từ Hiến Pháp, từ nghị quyết, từ tất cả những văn bản chính thức, đều nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngoài ra còn nói rõ thêm về vai trò trụ cột của nền kinh tế quốc doanh. Với những điểm như vậy thì Việt Nam không thể nào đạt được những tiêu chí kinh tế thị trường như Mỹ đưa ra.

    Đọc thêm : Được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường: Không đơn giản đối với Việt Nam

    Vấn đề còn lại chỉ là chính quyền Mỹ, vì những lý do khác ngoài lý do kinh tế, ví dụ do quan hệ ngoại giao, địa-chính trị hay gì đó, mà họ nới lỏng cho Việt Nam, họ công nhận Việt Nam có kinh tế thị trường, để mà có quan hệ như thế nào với Việt Nam. Liệu những lý do chính trị và ngoại giao đấy có đủ mạnh để chính quyền Mỹ chấp nhận để bên bộ Ngoại Giao, rồi phía Nhà Trắng can thiệp vào công việc của bộ Thương Mại, ép bộ Thương Mại cho Việt Nam được hưởng quy chế thị trường hay không, điều này cũng phụ thuộc vào vấn đề đó.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ.

  • Người dân ở Hà Nội có thêm tuyến đường sắt đô thị thứ hai trong hành trình "Giao thông nhanh cho tương lai xanh". Lễ vận hành thương mại tuyến số 3 Nhổn - ga Hà Nội đoạn trên cao được tổ chức ngày 09/11/2024 sau ba tháng mở cửa đón khách. Là dự án mang tính biểu tượng cho quan hệ Việt - Pháp, tuyến số 3 được hai bên kỳ vọng tăng cường hợp tác song phương trong những dự án tương lai về phát triển đô thị bền vững và chuyển đổi năng lượng phát thải thấp.

    Tuyến đường sắt đô thị 3 Nhổn - ga Hà Nội : Biểu tượng cho hợp tác Việt - Pháp

    Thành công của đoạn trên cao cũng « chứng tỏ năng lực của toàn thể đội ngũ Pháp - Việt Nam trong việc triển khai tốt các dự án hạ tầng đầy tham vọng của lĩnh vực vận tải đường sắt », theo nhận định của đại sứ Olivier Brochet khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt :

    « Tuyến đường sắt đô thị số 3 thực sự là một dự án biểu tượng cho sự hợp tác Pháp-Việt vì dự án đã được khởi công từ cách đây khá lâu và đó cũng là một dự án phức tạp cần chút thời gian để hoàn thành. Việc tuyến đường được đưa vào hoạt động vào tháng 08/2024 đã được mọi người trông đợi. Chúng tôi rất vui. Trước tiên vì đây là một thành công lớn về kỹ thuật. Tuyến đường hoạt động rất tốt, chỉ trong một tháng đã có gần 1 triệu người ở Hà Nội sử dụng tàu điện. Có thể thấy là tuyến đường sắt này đã tìm được vị trí của mình. Đây là điểm đầu tiên cần phải nêu bật và chúng tôi rất vui.

    Tiếp theo là những mục tiêu. Phát triển bền vững giao thông đô thị là một thách thức đối với tất cả các thành phố lớn, dĩ nhiên là đối với cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ Việt Nam muốn phát triển những loại hình giao thông đô thị một cách năng động trong những năm tới. Còn chúng tôi mong muốn làm việc với chính phủ Việt Nam bởi vì trước hết, giao thông đô thị bền vững là điều rất quan trọng cho người dân, giúp cải thiện điều kiện lưu thông, điều kiện sống hàng ngày bằng cách giảm thời gian di chuyển cho họ. Việc này cũng quan trọng đối với thành phố bởi vì đây là cách giảm ô nhiễm, giảm tắc đường. Chúng ta thấy ở Hà Nội, tình hình thường xuyên ở ngưỡng ranh giới, nhất là về mặt ô nhiễm đô thị vẫn còn rất nghiêm trọng.

    Tiếp theo, tuyến tàu điện còn có vai trò quan trọng vì làm giảm khí phát thải CO2 trong giao thông vận tải. Đây là một thách thức cơ bản trong cuộc chiến chống tình trạng trái đất nóng lên. Các phương tiện giao thông, trên quy mô thế giới, chiếm gần 25% lượng khí phát thải. Trên khắp mọi nơi, người ta tìm cách làm giảm lượng khí này và cách tốt nhất là phát triển giao thông đô thị hiệu quả, hiện đại. Chúng tôi rất vui được giải quyết những thách thức này với chính phủ Việt Nam và chính quyền thành phố Hà Nội ».

    Không chỉ đơn thuần là phương tiện giao thông

    Ngay trong 5 ngày đầu khai thác thương mại (08-12/08), tuyến số 3 đã phá kỷ lục lượt khách trải nghiệm tuyến 2A Cát Linh - Hà Đông, thu hút gần 300.000 lượt khách, trong đó chỉ riêng ngày 11/08 có đến 100.000 lượt, gần gấp đôi con số 58.000 lượt trong ngày 01/05/2023 của tuyến 2A. Không chỉ giữ chức năng phương tiện giao thông công cộng, tuyến số 3 được đối tác Pháp muốn biến thành không gian thư giãn, sinh hoạt chung cho hành khách mà không nhàm chán, tẻ nhạt với việc đưa nghệ thuật vào các công trình giao thông. Đây cũng là một thế mạnh của Pháp và được triển khai rộng rãi trong hệ thống tàu điện ngầm Paris-Ile de France.

    Lần đầu tiên, một tác phẩm nghệ thuật công cộng được đặt tại nhà ga đường sắt đô thị. Tác phẩm Năm giờ sáng, Hà Nội thức giấc - Il est cinq heures, Hanoï s’éveille (lấy cảm hứng từ bài hát nổi tiếng Pháp Il est cinq heures, Paris s’éveille), được Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tài trợ thông qua quỹ Metis và tặng thành phố Hà Nội, được đặt tại ga Cầu Giấy, đúng lễ vận hành thương mại đoạn trên cao và đặt biển khánh thành. Tác phẩm muốn truyền tải cùng lúc nhiều thông điệp về khuyến khích sử dụng giao thông công cộng, nhận thức về biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng, bảo tồn di sản văn hóa… Trong hành trình này, phía Pháp đã vận dụng rất nhiều công nghệ cao, hiện đại để tuyến số 3 xanh và bền vững, theo giải thích của đại sứ Olivier Brochet :

    « Cam kết của Pháp trong quá trình xây dựng tuyến đường số 3, trước tiên là thông qua việc tài trợ bởi vì gần 50 triệu euro ngân sách đã được huy động từ kho bạc Pháp hoặc từ Cơ quan Phát triển Pháp AFD. Nhưng cam kết của Pháp còn được thể hiện qua việc huy động tinh hoa của công nghệ Pháp về giao thông đường sắt đô thị. Có thể thấy rất nhiều tên tuổi lớn trong lĩnh vực công nghệ Pháp, như Alstom, Colas Rail, Systra - một công ty kỹ thuật tổng hợp, RATP Smart Systems…

    Tất cả những doanh nghiệp lớn của Pháp đều có kinh nghiệm dày dặn tại Pháp. Điều này được thấy trong kỳ Thế Vận Hội, các phương tiện giao thông đô thị đã đóng vai trò chủ đạo trong thành công của đại hội thể thao này. Những doanh nghiệp đó cũng được huy động trong dự án xây dựng mạng lưới Paris Express, hiện là dự án lớn nhất về giao thông đô thị ở châu Âu cho đến hiện nay. Người ta cũng thấy những doanh nghiệp lớn này của Pháp trong tất cả các dự án tàu điện trên thế giới, như ở Cairo (Ai Cập), ở Medellín (Colombia), ở Rabat (Maroc)… Và tất cả đều đang phục vụ tại Hà Nội và dĩ nhiên chúng tôi mong muốn phát triển thêm trong những dự án mới mà chính phủ Việt Nam dự kiến tiến hành trong những năm tới ».

    Triển vọng hợp tác mới về giao thông vận tải

    Dự án khởi công năm 2009, theo kế hoạch hoàn thành năm 2015 nhưng nhiều lần lùi tiến độ và dự kiến hoàn thành năm 2027, riêng đoạn trên cao đã được khai thác thương mại từ tháng 08/2024. Tổng vốn đầu tư cũng bị tăng gấp đôi, từ hơn 18.000 tỉ đồng lên gần 36.000 tỉ đồng. Liệu những điểm này có trở thành một trở ngại trong khi Pháp cho biết sẵn sàng đồng hành với Việt Nam trong những dự án trong tương lai ? Trả lời thắc mắc của RFI Tiếng Việt, đại sứ Olivier Brochet giải thích :

    « Những dự án lớn này đều là những dự án vô cùng phức tạp ở khắp mọi nơi, phức tạp về mặt công nghệ, phức tạp trong việc triển khai công trường bởi vì cần phải xây dựng những công trường quy mô lớn ở một thành phố mà cuộc sống vẫn tiếp diễn theo nhịp độ thông thường, phức tạp về mặt cơ chế, thực hiện các quy định mới của Nhà nước thiết lập các hệ thống này.

    Vì tất cả những lý do tích tụ này dẫn đến những chậm trễ. Và tất cả các tuyến đường sắt đã được xây dựng đều bị chậm. Tuyến số 1 ở đây chẳng hạn cũng bị khởi công muộn. Tuyến mới ở thành phố Hồ Chí Minh, được hợp tác xây dựng với Nhật Bản, cũng bị trễ. Đây là việc bình thường vì cần phải có thời gian học tập. Điều quan trọng hiện nay là có thể sử dụng quãng thời gian học tập đó để tiết kiệm thời gian sau này, qua việc đã có những tác nhân hiểu rõ vấn đề, hiểu những trông đợi, nhu cầu của mỗi bên để có thể có những dự án tiến triển nhanh hơn, sớm mang lại kết quả và đến lúc đó sẽ cho phép làm chủ chi phí tốt hơn.

    Chính vì thế mà chúng tôi đã đề xuất với chính phủ Việt Nam là bắt đầu suy nghĩ luôn đến việc kéo dài tuyến số 3. Có nghĩa là không phải công trình ngầm đã được khởi công và đang tiến triển mà ngay từ bây giờ, nên bắt đầu chuẩn bị cho việc kéo dài tuyến. Bởi vì nếu dự tính sớm thì sẽ giúp triển khai công việc tiếp theo sau khi hoàn thành công trình ngầm và như vậy sẽ tránh được các chi phí bổ sung liên quan đến việc giải thể các công ty tham gia xây dựng tuyến số 3 ».

    Trong chuyến công du Pháp của chủ tịch nước Việt Nam kiêm tổng bí thư Tô Lâm từ ngày 03-07/10/2024, hai nước bày tỏ mong muốn tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải hướng tới giảm phát thải carbon thông qua « Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực Giao thông Vận tải ». Theo bộ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thắng, « đây cũng là lĩnh vực mà Việt Nam hết sức quan tâm nhằm thực hiện các cam kết tại Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP21) và COP26 (phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050) trong lĩnh vực giao thông vận tải ».

    Thực ra, theo trang Facebook Thông tin Chính phủ ngày 07/10, Việt Nam và Pháp đã phối hợp hoàn thành một số dự án trong lĩnh vực đường sắt, như hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt đoạn Hà Nội - Vinh do tập đoàn Alstom và đối tác Việt Nam triển khai ; dự án Cải tạo và nâng cấp tuyến đường sắt Yên Viên - Lào Cai do Ngân hàng Phát triển châu Á và Pháp đồng tài trợ.

    Ngoài dự án đường sắt đô thị Nhổn - ga Hà Nội, bộ Giao thông Vận tải đã đề nghị Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam và cơ quan AFD nghiên cứu cung cấp « Hỗ trợ kỹ thuật lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án cải tạo, hiện đại hóa tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng », có xét đến tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng được xây dựng mới trong tương lai. Báo Chính phủ ngày 04/11 cho biết Cục Đường sắt Việt Nam (trực thuộc bộ Giao thông Vận tải) đã trình hồ sơ Quy hoạch tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh đi qua 10 tỉnh/thành phố.

    Cơ quan AFD, hiện là nhà tài trợ song phương lớn nhất khu vực châu Âu của Việt Nam, cũng được kêu gọi tiếp tục trao đổi, tìm kiếm cơ hội hợp tác trong các dự án đường sắt tại Việt Nam thời gian tới. Ông Philippe Orliange, giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp tại Việt Nam, khẳng định AFD sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ vốn vay cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển đường sắt cao tốc, lĩnh vực mà Pháp có thế mạnh và Việt Nam đang đặc biệt quan tâm, mong muốn thực hiện trong thời gian tới.

    Liệu thành công của tuyến đường sắt đô thị số 3 Nhổn - ga Hà Nội tiếp thêm sức bật cho những dự án mới ? Dù sao, theo bản ghi nhớ ký tại Paris, Việt Nam và Pháp dự định hợp tác trong các lĩnh vực đường sắt, hàng hải và đường thủy nội địa ; tạo thuận lợi cho chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải, tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi, thích ứng với biến đổi khí hậu… Đây cũng là những lĩnh vực hợp tác truyền thống và rất năng động giữa hai nước từ nhiều năm qua.

  • Chiến thắng áp đảo của ứng cử viên Cộng Hòa Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 05/11/2024 sẽ có tác động đến toàn thế giới, đặc biệt là đến châu Âu.

    Tại châu Á, trong khi một số đồng minh thân cận của Mỹ như Hàn Quốc hay Nhật Bản lo ngại khi thấy ông Trump trở lại Nhà Trắng, thì Việt Nam không sợ sẽ có những thay đổi lớn trong quan hệ với Hoa Kỳ, nếu có chăng thì đó là trong lĩnh vực thương mại, bởi lẽ chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ hai cũng sẽ thi hành một chính sách mang tính bảo hộ mậu dịch đối với tất cả các nước, kể cả với Việt Nam.

    Trong phần tạp chí hôm nay, xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ.

    RFI: Với việc Donald Trump trở lại Nhà Trắng, liệu chính sách châu Á của ông có sẽ tương tự như trong nhiệm kỳ đầu ?

    Vũ Xuân Khang: Điều này còn phải trông chờ rất nhiều vào thành viên nội các của ông Trump trong tương lai, nhất là hai vị trí cố vấn an ninh quốc gia và ngoại trưởng. Tuy vậy, nhiệm kỳ 1 của Trump cho thấy là ông vẫn muốn duy trì hiện diện và ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nhưng rõ ràng ông Trump sẽ theo một cách khác với các tổng thống trước. Ông luôn mong muốn các nước đồng minh Châu Á phải mạnh tay chi tiêu quốc phòng hơn và ký kết các hiệp định thương mại có lợi cho Mỹ nhiều hơn, do ông là một tổng thống ưu tiên lợi ích nước Mỹ trong ngắn hạn hơn là trong dài hạn.

    Ông Trump có thể giảm sự hiện diện của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á hoặc khu vực Châu Á nói chung khi nào các nước Châu Á không đáp ứng được yêu cầu của ông Trump, thứ nhất cắt giảm thâm hụt thương mại và thứ hai là đóng góp nhiều hơn vào việc bảo vệ an ninh khu vực, tăng chi phí quốc phòng để giảm gánh nặng cho Mỹ trong việc bảo vệ các nước đồng minh.

    Các nước Châu Á trong thời gian tới sẽ cố gắng xoa dịu ông bằng cách mua hàng của Mỹ hay đầu tư nhiều hơn vào các doanh nghiệp Mỹ trên đất Mỹ nhằm giúp cho ông Trump gây được tiếng vang đối với cử tri trong nước, chứng tỏ là ông đã thực hiện được lời hứa Buy american, Hire american ( Mua hàng của Mỹ và Thuê nhân công Mỹ ).

    RFI: Riêng đối với Việt Nam, từ nhiệm kỳ của Trump đến nhiệm kỳ của Biden, quan hệ Việt-Mỹ đã tiến triển như thế nào ? Có sự cách biệt nào đó hay có sự tiếp nối giữa hai nhiệm kỳ tổng thống?

    Vũ Xuân Khang: Việt Nam may mắn là một trong những nước có được sự ủng hộ của lưỡng đảng Hoa Kỳ, do đó dù tổng thống là Cộng Hòa hay Dân Chủ, quan hệ Việt-Mỹ cũng sẽ có sự phát triển trong thời gian tới.

    Quan hệ Việt-Mỹ đã có những bước tiến lớn từ năm 2017 đến nay cả dưới thời ông Trump nhiệm kỳ đầu tiên lẫn nhiệm kỳ Biden. Trong thời gian 7 năm qua, lần đầu tiên đã có một tàu sân bay Mỹ ghé cảng của Việt Nam vào năm 2018 và Mỹ vẫn tiếp tục chuyển giao các tàu tuần tra cho Cảnh sát biển Việt Nam, như một cam kết với an ninh của khu vực và đặc biệt đối với Biển Đông.

    Dưới thời Biden, Việt Nam và Mỹ cũng đã nâng cấp quan hệ nhảy vọt lên thành đối tác chiến lược toàn diện và quan trọng nhất là Mỹ đã không trừng phạt Việt Nam sau khi cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ vào giai đoạn cuối của nhiệm kỳ Trump 1. Mặc dù vào tháng 8 năm nay, Mỹ đã không cấp cho Việt Nam quy chế kinh tế thị trường để giúp hàng hóa Việt Nam nhập vào Mỹ với giá rẻ hơn, nhưng hai nước sẽ tiếp tục đàm phán về vấn đề này.

    Có thể thấy là quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam, khác với quan hệ với các đồng minh trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, sẽ tiếp tục phát triển bình thường và ổn định.

    RFI: Trump đã từng nắm giữ chức tổng thống và đã từng sang thăm Việt Nam. Có lẽ là với chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ hai, giới lãnh đạo Việt Nam không mấy xa lạ với phong cách lãnh đạo của ông? Họ có thể dễ dàng thích ứng với những chính sách mới mà ông sẽ thi hành đối với Việt Nam? Với chính quyền Trump 2, chắc là họ cũng sẽ tiếp tục áp dụng chính sách ngoại giao "cây tre"?

    Vũ Xuân Khang: Đúng là như vậy. Từ giai đoạn 1990 đến nay, ngoại giao "cây tre" vẫn là hòn đá tảng của ngoại giao Việt Nam và Hà Nội sẽ không thay đổi chính sách này chỉ vì một tổng thống Mỹ nhậm chức. Điểm mạnh của ngoại giao "cây tre" là Hà Nội không đặt hết trứng vào một giỏ, nên cho dù ai đắc cử tổng thống Mỹ, chính sách ngoại giao của Việt Nam với Mỹ cũng sẽ không thay đổi.

    Bài học này là Việt Nam học từ giai đoạn Việt Nam liên minh với Liên Xô vào những năm 1970-1980. Việt Nam đã đặt niềm tin vào lãnh đạo Liên Xô Leonid Brejnev, nhưng khi có thay đổi lãnh đạo,ông Mikhail Gorbatchov lên nắm quyền 1985, thì rõ ràng là chính sách đối ngoại của Việt Nam bị phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đối ngoại của lãnh tụ Liên Xô. Do đó, khi ông Gorbatchov hòa hoãn với Trung Quốc, thì Việt Nam cũng đã bắt buộc thi hành chính sách hòa hoãn với Trung Quốc và rút quân khỏi Cam Bốt, do sức ép của Liên Xô.

    Chính bài học này khiến Việt Nam phải cẩn thận hơn khi hành xử với các đối tác ngoại giao lớn. Chính sách ngoại giao "cây tre" sẽ giúp Việt Nam tập trung nhiều hơn vào việc phát triển quan hệ Việt - Mỹ nói chung, chứ không phải với một lãnh đạo nhất định nào cả. Trong thời gian tới, Việt Nam vẫn sẽ tập trung phát triển trao đổi kinh tế và công nghệ và hạn chế trao đổi quốc phòng với Mỹ do áp lực từ ngày xưa từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam.

    Một ví dụ rất lớn: Mặc dù đã rất bất ngờ khi ông Trump thắng cử vào năm 2016, Việt Nam đã rất nhanh chóng tiếp cận với chính quyền Trump. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã là lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên được ông Trump tiếp đón tại Nhà Trắng vào tháng 5/2017. Trong dịp đó, Mỹ và Việt Nam có các trao đổi về thương mại cũng như quốc phòng. Chỉ vài ngày trước cuộc gặp diễn ra, Mỹ đã chuyển giao 1 tàu tuần tra cho Cảnh sát biển Việt Nam như một cam kết là Mỹ vẫn có lợi ích ở khu vực Đông Nam Á.

    Chính quyền Việt Nam sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận ông Trump, do Việt Nam đã không tỏ ra ủng hộ bên nào hơn bên nào trong bầu cử tổng thống Mỹ, khác với các đồng minh Châu Á khác khi họ ủng hộ ứng cử viên Dân chủ Kamala Harris. Việc Việt Nam không phải là đồng minh của Mỹ cũng sẽ giúp Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn và không bị bó buộc vào một chính sách đối với một ứng cử viên.

    RFI: Có thể Hoa Kỳ sẽ tiếp tục xem Việt Nam là một đối tác quan trọng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và có thể giúp Hoa Kỳ kềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Nhưng liệu có nguy cơ là ông Trump, với chủ trương America First ( Nước Mỹ trước hết ), sẽ thi hành một chính sách thương mại mang tính bảo hộ mậu dịch nhiều hơn và điều này sẽ có ảnh hưởng gì đến Việt Nam, nhất là vì Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam?

    Vũ Xuân Khang: Trump từ lâu đã tuyên bố cần phải giảm thâm hụt thương mại trong quan hệ với Việt Nam. Với tư cách là một tổng thống xuất thân từ giới kinh doanh và đặt ưu tiên là mọi người phải mua hàng của Mỹ và thuê nhân công Mỹ, ông Trump hiển nhiên không thích nước Mỹ bị Việt Nam "lợi dụng" về thương mại, theo cách nhìn của ông Trump.

    Có khả năng cao là ông Trump sẽ ép Việt Nam mua nhiều hàng hóa của Mỹ hơn, thuê nhiều nhân công của Mỹ hơn và mở rộng các nhà máy ở Mỹ hơn, như tập đoàn Vinfast đã làm trong thời gian qua. Đây sẽ là cách ông Trump gây áp lực lên Việt Nam để làm giảm thâm hụt thương mại. Có thể yếu tố này, chứ không phải yếu tố Trung Quốc, sẽ quyết định sự phát triển của quan hệ Việt-Mỹ trong những năm tới.

    Việt Nam cũng sẽ cần phải khôn khéo tránh các đòn trừng phạt thương mại của Mỹ, như cáo buộc thao túng tiền tệ, đồng thời nên chọn mua những mặt hàng của Mỹ nhằm phát triển công nghiệp 4.0 và trí tuệ nhân tạo, vì rõ ràng Mỹ vẫn là một nước có nền công nghiệp và công nghệ phát triển rất mạnh. Việt Nam cũng sẽ có lợi rất nhiều nếu như có thể chọn mua của Mỹ những thứ mà những nước khác không thể cung cấp cho Việt Nam. Đây cũng là một trọng tâm phát triển quan hệ Việt-Mỹ trong khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện ký kết vào năm ngoái, khi Việt Nam đặt nặng việc phát triển công nghệ bán dẫn và trí tuệ nhân tạo trong những năm tới.

  • Để bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn thực hiện được cam kết về chống biến đổi khí hậu, Việt Nam đang muốn quay trở lại với các dự án điện hạt nhân đã bị bỏ dở trước đây.

    Vào giữa tháng 9 vừa qua, chính phủ Hà Nội đã giao cho bộ Công Thương nghiên cứu việc phát triển điện hạt nhân của các nước, “để đề xuất phát triển loại năng lượng này tại Việt Nam trong thời gian tới”. Trên cơ sở đó, chính phủ “sẽ báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định”.

    Trên thế giới hiện nay, nhiều nước đang quay lại điện hạt nhân để chống biến đổi khí hậu vì hạt nhân là nguồn điện hầu như không phát thải CO2.

    Vào năm 2009, Quốc Hội Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuân, với tổng cộng 4 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW. Các hợp đồng được giao cho tập đoàn Nhật Bản Japan Atomic Power Co và tập đoàn Nga Rosatom thực hiện, với tổng chi phí khoảng 8,9 tỷ đô la.

    Nhưng một phần do những quan ngại từ tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 và một phần do khó khăn về ngân sách vào thời gian đó, dự án này đã dừng lại vào năm 2016 theo quyết định trong Nghị quyết 31 năm 2016 của Quốc Hội. Đến năm 2022, khi giám sát về việc thực hiện nghị quyết này của Quốc Hội, Ủy ban Kinh tế đã đề xuất nên xem xét phát triển năng lượng hạt nhân “trên cơ sở đánh giá đầy đủ, khoa học, chính xác thực trạng và dự báo cung cầu năng lượng”.

    Nay nhu cầu phát triển điện hạt nhân càng trở nên cấp thiết do Việt Nam đang gặp nhiều trở ngại trong chiến lược phát triển các nguồn năng lượng sạch, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và khí đốt thiên nhiên, do các vấn đề về quy định và giá cả.

    Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/09/2024, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, cũng cho rằng đã đến lúc phải xem xét trở lại khả năng phát triển điện hạt nhân:

    “Trong bối cảnh chung , rõ ràng là khi kiểm tra lại các phương án, chúng ta có thể xem xét trở lại vấn đề hạt nhân, vì năng lượng này có thể đóng góp phần lớn và tạo thêm bức tranh chung, tức là tiến đến thực hiện cho được cam kết netzero cũng như các phương án điện khác.

    Trước đây chúng ta gác việc ấy lại, nhưng bây giờ thấy cần thiết phải xem xét, nhưng đấy chỉ mới là xem xét thôi, chứ còn điện hạt nhân thì có nhiều loại lắm, vấn đề là xem xét loại nào.

    Bây giờ tình trạng chung các nước đều như thế cả, cho nên nước nào cũng sẽ xem xét phát triển điện hạt nhân, nhưng mỗi nước có một điều kiện riêng. Khi xem xét Việt Nam cũng phải dựa trên điều kiện của Việt Nam để đề ra những phương án cụ thể, chứ thực chất là các loại năng lượng tái tạo vẫn tốt, nhưng bao giờ cũng có những khó khăn”.

    Thật ra, theo hãng tin Anh Reuters, từ nhiều năm qua, Việt Nam đã vẫn tiếp tục thăm dò khả năng phát triển điện hạt nhân và đã thảo luận với những nước như Nga, Hàn Quốc và Canada về việc hỗ trợ phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ.

    Việc phát triển điện hạt nhân hiện không được đề cập trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đến 2030 ( Quy hoạch điện VIII ), nhưng trong báo cáo gửi các bộ ngành đề nghị góp ý cho dự thảo sửa quy hoạch này, bộ Công Thương có nhắc đến phát triển các nhà máy điện hạt nhân cỡ nhỏ (SMR) ở Việt Nam.

    Theo Bộ này, các lò phản ứng module nhỏ có công suất khoảng 300 MW mỗi tổ máy, bằng một phần ba công suất của các lò truyền thống. Các nhà máy này sản xuất lượng điện có hàm lượng carbon thấp, thời gian xây dựng ngắn (khoảng 24-36 tháng).

    Giáo sư Phạm Duy Hiển cũng đồng tình với việc phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ phù hợp với điều kiện của Việt Nam:

    “Bây giờ nếu nói trở lại điện hạt nhân, ý kiến dứt khoát của tôi là không dùng điện hạt nhân như trước đây đã từng dự định làm ở Phan Rang theo mô hình các nhà máy thế hệ 3+, dùng công nghệ của Nga và của Nhật, rất là tốn kém, giải pháp về an toàn thì rất tốt, nhưng không cần thiết. Ví dụ như họ tính là nhà lò kiên cố đến mức mà máy bay có rơi thẳng xuống thì không sao cả. Để làm gì? Xác suất mà máy bay rơi xuống rơi xuống nhà lò thì cực kỳ thấp. Công nghệ đó có thể thích hợp với các nước tiên tiến. Bây giờ các nước đó xây những lò phản ứng cùng một lúc có thể cho ra hàng ngàn MW.

    Còn bây giờ theo điện hạt nhân thì phải theo option mới, mà một trong những option đó là lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ. Lò phản ứng này rất thích hợp vì không đòi hỏi nhiều về cơ sở hạ tầng về pháp lý, về xây dựng…, nhưng công suất tối đa chỉ 100, 200 MW, nên tất nhiên là phải cần nhiều lò.”

    Nhưng giáo sư Phạm Duy Hiển nhấn mạnh, hiện trên thế giới chưa có lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ nào sẵn sàng để được thương mại hóa:

    "Nước nào cũng nói như vậy nhưng đâu đã có ai bán lò công suất thấp với giá tương đối phải chăng. Bộ Công Thương nếu có trình dự án cho Bộ Chính trị thì cũng để đấy, vì phải có thêm thời gian nghiên cứu và cũng chờ cho đến khi nào các lò công suất thấp đó được thương mại hóa, chắc chắn là phải sau năm 2030".

    Nếu quyết định trở lại với các dự án phát triển điện hạt nhân, Việt Nam sẽ có thể trông chờ vào sự trợ giúp của nước nào? Trước mắt, có vẻ như Nga đang chiếm ưu thế trong số các đối tác tương lai của Việt Nam.

    Theo báo chí trong nước, trong chuyến thăm cấp nhà nước của tổng thống Nga Vladimir Putin ở Việt Nam vào tháng 6/2024, hai bên đã khẳng định "phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình là lĩnh vực hứa hẹn trong mở rộng hợp tác song phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga."

    Nhân dịp đó, Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) và Bộ Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam đã ký bản ghi nhớ về lộ trình thực hiện Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Dự án này bao gồm lò phản ứng hạt nhân với công suất 10 MW sẽ được xây dựng tại thành phố Long Khánh (Đồng Nai).

    Thật ra thì ba nhiệm vụ quan trọng của lò phản ứng tại Long Khánh chỉ là sản xuất đồng vị phóng xạ, dược chất phóng xạ để chẩn đoán, điều trị ung thư; chiếu xạ silic tạo vật liệu bán dẫn; triển khai các nghiên cứu về ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và đồng vị phóng xạ. Nhưng đây được coi là cơ sở để "giúp nâng cao tiềm lực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam trong giai đoạn tới", theo đánh giá của chính phủ Việt Nam.

    Hàn Quốc, một trong những quốc gia cũng có thế mạnh về năng lượng nguyên tử, cũng đã tỏ vẻ rất quan tâm đến khả năng phát triển loại năng lượng này ở Việt Nam. Theo báo chí trong nước, khi hội kiến chủ tịch nước Tô Lâm ngày 02/08, đại sứ Hàn Quốc Choi Young Sam bày tỏ mong muốn của Seoul tăng cường hợp tác với Hà Nội trong việc phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam.

    Trước đó, Công ty Thủy điện và Điện hạt nhân Hàn Quốc (KHNP) thuộc Công ty Điện lực Hàn Quốc (KEPCO) ngày 22/6/2023 tại Hà Nội đã ký kết biên bản ghi nhớ với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) về hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực điện nguyên tử và lò phản ứng module nhỏ (SMR).

    Việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam như đã nói ở trên phải cần nhiều năm, cho nên trước mắt, do nhu cầu tiêu thụ điện năng ngày càng lớn, Việt Nam phải cố gắng tiết kiệm điện, điều mà giáo sư Phạm Duy Hiển đã kêu gọi từ lâu:

    "Tôi thấy rất mừng là nước đã nhận ra rằng mức tiêu thụ điện năng của mình là quá cao so với nhiều nước khác. Do đó ngay cả EVN ( Tập đoàn Điện lực Việt Nam ) cũng đã đề nghị nhà nước phải có một chính sách tiết kiệm điện một cách triệt để, thậm chí đề ra mục tiêu là hàng năm phải tiết kiệm 2% điện năng. Đấy là một chủ trương rất tích cực, góp phần vào mục tiêu chung, chứ không chỉ có việc phát triển các năng lượng tái tạo và những vấn đề khác."

  • Trong chuyến thăm chính thức Pháp, tổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm đã hội đàm với tổng thống Emmanuel Macron tại điện Élysée, Paris hôm 07/10/2024. Hai bên quyết định nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện, mở ra một chương mới trong quan hệ lịch sử song phương. Thắt chặt quan hệ với một nước xuất khẩu vũ khí lớn ở châu Âu có tác động đến khả năng quốc phòng của Việt Nam hay không ? Cột mốc ngoại giao do ông Tô Lâm đặt ra, phải chăng giúp vị tổng bí thư vủng cố quyền lực, đặc biệt là về ngoại giao ?

    Pháp, nước đầu tiên tại châu Âu, vừa trở thành thành viên thứ 8 trong câu lạc bộ các nước có quan hệ cấp cao nhất trong chính sách ngoại giao của Việt Nam, sau Trung Quốc (2008), Nga (2012), Ấn Độ (2016) Hàn Quốc (2022), Hoa Kỳ (2023), Nhật Bản (2023), Úc (2024).

    Việc thắt chặt quan hệ giữa hai nước sẽ giúp tăng cường hợp tác kinh tế song phương. Pháp hiện là đối tác thương mại lớn thứ năm của Việt Nam. Trao đổi thương mại song phương tăng 42 % trong hơn một thập kỷ qua, đạt 4,8 tỷ đô la vào năm 2023. Pháp cũng đã đầu tư vào gần 700 dự án tại Việt Nam, và là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 16 tại Việt Nam.

    Nhà nghiên cứu Zachary M. Abuza, tại đại học National College War , Hoa Kỳ, nhấn mạnh rằng Việt Nam coi phát triển kinh tế là “ưu tiên” . Ông giải thích : “Nếu nhìn vào các đối tác chiến lược toàn diện mà Việt Nam đã thiết lập, tất cả đều là các đối tác kinh tế lớn. Đây luôn là tôn chỉ của Việt Nam trong chính sách ngoại giao. Hà Nội đang nổ lực để trở thành một nước phát triển, hoặc ít nhất là trong nhóm nước có thu nhập cao từ nay đến 2045. Do vậy, nâng cấp quan hệ với Pháp là một lựa chọn quan trọng cho Việt Nam, có thể đơn giản là vì những di sản thuộc địa, dù xấu hay tốt. Paris có một trang sử dài với Hà Nội. và Việt Nam đã đấu tranh trong nhiều năm để giành lại độc lập từ Pháp. Do vậy, tôi nghĩ rằng, về mặt biểu tượng, đó là điều quan trọng để Pháp trở thành nước châu Âu đầu tiên mà Việt Nam thiết lập quan hệ này”.

    Sự tiếp nối "hợp lý"

    Về phần mình, Laurent Gédéon, giảng viên tại đại học sư phạm Lyon, cho rằng việc nâng cấp quan hệ thể hiện sự tiếp nối “hợp lý” phát triển hợp tác giữa hai bên từ hơn chục năm qua, (sau khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2013). Cột mốc ngoại giao mới này còn được đánh dấu trong khuôn khổ mang tính biểu tượng cao của hội nghị thượng đỉnh Pháp ngữ lần thứ 19, lần đầu tiên ở Pháp sau 33 năm.

    Trong cuộc gặp nguyên thủ Pháp tại điện Élysée, tổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Tô Lâm đã kêu gọi ông Emmanuel Macron dùng ảnh hưởng để sớm phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU, và để gỡ bỏ “thẻ vàng” mà Ủy Ban Châu Âu áp đặt đối với các sản phẩm thủy hải sản của Việt Nam.

    Nhìn từ Paris, tăng cường quan hệ giữa hai nước cũng sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư Pháp và thâm nhập thị trường Việt Nam cũng như di dời một số hoạt động công nghiệp.

    Ngoài việc thúc đẩy lợi ích kinh tế, theo nhà nghiên cứu Gédéon, cả Hà Nội và Paris đều muốn đưa “vấn đề Trung Quốc” vào trong chiến lược ngoại giao của mình. Với tư cách là thành viên của các tổ chức khu vực, và có một số ảnh hưởng nhất định tại ASEAN, Việt Nam được xem cửa ngõ quan trọng để Paris tìm cách tăng cường ảnh hưởng tại Đông Nam Á. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập cân bằng trong khu vực với Trung Quốc và có lợi cho Pháp.

    Việt Nam cũng trông cậy vào ủng hộ của Pháp về lập trường đối với Biển Đông

    Tuyên bố chung ngày 7/10/2024 khẳng định : ‘Hai bên cam kết duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông cũng như tuân thủ đầy đủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Cả hai bên kiên quyết phản đối mọi hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trái với luật pháp quốc tế; và tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì an ninh, tự do hàng hải và hàng không, không bị cản trở, cũng như quyền tự do đi lại ở Biển Đông…”

    Nhà nghiên cứu Gédéon cho rằng : “Việt Nam cũng trông cậy vào ủng hộ của Pháp về lập trường đối với Biển Đông… Điều đáng chú ý trong tuyên bố chung ngày 07/10 là việc Pháp nhắc đến việc hỗ trợ nguồn lực quân sự cho Hà Nội, đặc biệt là lực lượng cảnh sát biển. Và điều này, phù hợp với mong muốn của Việt Nam trong việc tăng cường năng lực làm chủ, kiểm soát không gian biển, trong bối cảnh tranh chấp với Trung Quốc. Trong trường hợp này, Pháp không xuất hiện với tư cách đơn thuần là nhà cung cấp vũ khí cho Việt Nam, nhất là những loại vũ khí có thể đe dọa trực tiếp Trung Quốc nếu xảy ra xung đột - hiện vẫn là giả thuyết. Tuy nhiên, khía cạnh quân sự lại không được làm quá nổi bật, tôi cho rằng là để không “xúc phạm” Trung Quốc. Theo tôi, Pháp có mối quan tâm về việc liệu Việt Nam có đủ phương tiện để tự vệ, và khả năng đối phó với xâm lược quân sự nếu cần thiết. Trung Quốc cũng đang lưu ý đến điều này. Nhưng phải nhắc lại rằng Việt Nam cũng duy trì quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, trong đó có hợp tác quân sự, bất chấp những sóng gió giữa hai bên”.

    Trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường đa dạng hoá nguồn cung vũ khí, giảm dần phụ thuộc vào Nga, đối tác lịch sử của Hà Nội do lo ngại trước những tác động từ cuộc chiến ở Ukraina, chưa kể nhiều loại vũ khí từ Nga có thể lỗi thời, hoặc việc chuyển giao công nghệ phức tạp, vì cần biết tiếng Nga hoặc đến đào tạo tại Nga.

    Đọc thêm : Nga nướng vũ khí ở Ukraina, Việt Nam lo nguồn cung thiếu hụt

    Đối với Pháp, theo nhà nghiên cứu Zachary Abuza, Việt Nam là một thị trường tiềm năng và Paris nhận thấy nhu cầu của Việt Nam, cần thêm “tàu chiến, các loại chiến đấu cơ thế hệ mới, chẳng hạn như các máy bay Rafale.” Hơn nữa, nhà phân tích quân sự tại Natinal War College cho rằng “có thể Pháp sẽ dám mạnh tay hơn”, so với các nhà sản xuất từ các nước khác, quan tâm đến các hợp tác sản xuất, hoặc chuyển giao công nghệ cho Hà Nội. Việt Nam cũng tăng cường khả năng tự chủ vũ khí, sản xuất một số thiết bị quân sự. Tập đoàn Viettel của quân đôi Việt Nam, được cho là đã phát triển các hệ thống thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, ra đa, các thiết bị chỉ huy điều khiển,...

    Những nỗ lực quân sự của Việt Nam, đặc biệt là trong việc tăng cường quan hệ với Pháp, được nhìn từ Trung Quốc như thế nào. Chuyên gia về quân sự Zachary Abuza giải thích : “Dĩ nhiên là Bắc Kinh sẽ bất mãn trước bất cứ nỗ lực hiện đại hoá quân sự của Hà Nội, nhưng Trung Quốc chỉ có thể tự đổ lỗi cho các hành động gây hấn của mình ở Biển Đông. Tuy nhiên, bất cứ hợp tác nào giữa Việt Nam với Pháp đều ít mang tính đe dọa cho Trung Quốc hơn là với Mỹ. Điều mà các chiến lược gia Trung Quốc quan ngại là các loại vũ khí bất đối đối xứng (asymetric weapons), như tàu chống tên lửa hay các hệ thông không người lái (mà Việt Nam có thể sản xuất).

    “Củng cố tính chính danh trong hành động và lời nói của mình”

    Một điều đáng chú ý khác trong chuyến thăm của ông Tô Lâm đến Pháp vừa qua, đó là “chưa bao giờ lãnh đạo Việt giữ đồng thời cả hai vị trí”, vừa là chủ tịch nước và tổng bí thư đảng Cộng Sản, mà thường chỉ giữ một chức vụ. (Ví dụ, trường hợp của Lê Khả Phiêu, giữ tổng Bí thư đảng Cộng Sản vào năm 2000; Trần Đức Lương, chủ tịch nước năm 2002, Nông Đức Mạnh - tổng bí thư đảng Cộng Sản vào năm 2005; Cuối cùng là Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư vào tháng 3 năm 2018, trước khi trở thành chủ tịch nước vào tháng 10 năm 2018.)

    Giảng viên tại đại học sư phạm Lyon, Laurent Gédéon cho rằng việc nắm giữ cả hai chức vụ quan trọng, khi thực hiện các chuyến công du nước ngoài, giúp ông Tô Lâm “củng cố tính chính danh trong hành động và lời nói của mình”. Ông nói thêm : “Tôi cho rằng các chuyến thăm chính thức cùng những chuyến công du khác của ông Tô Lâm, có nhiều mục đích, trong đó muốn chứng tỏ rằng Việt Nam đã lật sang trang mới sau một thời kỳ hỗn loạn chính trị, (2 chủ tịch nước đã từ chức trong vòng hai năm, 2023-2024). Những biến động này đã tác động lớn đến hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, nảy sinh các câu hỏi về sự ổn định của chế độ chính trị. Chuyến thăm này như là một câu trả lời, khẳng định rằng thời kỳ bất ổn đã ở phía sau, cũng như tái khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

    Theo tôi, chuyến thăm của ông Tô Lâm tại Pháp, cũng không hề đặt vai trò tổng bí thư làm nền. Tổng bí thư cũng đã gặp bí thư quốc gia đảng Cộng Sản Pháp, Fabien Roussel, khẳng định rằng cuộc gặp là cơ hội để tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng Cộng Sản Pháp mà ông nhấn mạnh đến Hồ Chí Minh - một trong những thành viên sáng lập. Như vậy, có thể thấy rằng ông Tô Lâm không tách rời hai chức vụ của mình mà trái lại, lần lượt khẳng định vai trò của từng vị trí, tùy theo người đối thoại và bối cảnh”

    Công du nước ngoài để thể hiện năng lực ngoại giao

    Chuyến thăm Pháp của ông Tô Lâm nằm trong hành trình công du hơn 10 ngày, với các chặng dừng tại Mông Cổ và Ireland. Kể từ khi nhậm chức chủ tịch nước vào ngày 22.05, chức vụ mang tính nghi thức trong “Tứ trụ” ở Việt Nam, ông Tô Lâm, đã thực hiện nhiều chuyến công du nước ngoài mang tính truyền thống của Việt Nam, trước tiên là sang Lào, Cam Bốt, thể hiện mức độ chú trọng của Việt Nam về mặt ngoại giao với các đối tác láng giềng, mà Hà Nội có quan hệ mật thiết.

    Đến ngày 3 tháng 8 vừa qua, với 100% phiếu ủng hộ, chủ tịch nước Tô Lâm đã được Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng Sản, khóa 13 bầu làm tổng bí thư nhiệm kỳ 2021-2026. Vài tuần sau khi nắm giữ đồng thời hai chức vụ quan trọng, ông Tô Lâm tiếp tục các chuyến thăm nước ngoài, sang Trung Quốc thăm cấp Nhà nước, gặp chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Không lâu sau đó, tổng bí thư, chủ tịch nước tiếp tục lên đường, sang Mỹ, dự cuộc họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, có cuộc hội đàm với tổng thống Joe Biden bên lề sự kiện này. Và gần đây nhất là chuyến thăm cấp Nhà nước đến Mông Cổ, Ireland và dự hội nghị thượng đỉnh của khối Pháp ngữ, đồng thời thăm chính thức Pháp.

    Trước khi trở thành nhân vật quyền lực trong tứ trụ, ông Tô Lâm, với kinh nghiệm chính trường chủ yếu là ở trong nước, muốn thể hiện năng lực ngoại giao của mình qua các chuyến công du này. Theo nhà nghiên cứ Zachary Abuza, những nơi mà ông Tô Lâm đến, đều cho thấy rõ chính sách ngoại giao của Việt Nam, và Hà Nội vẫn luôn cố gửi tín hiệu đến Bắc Kinh, để khẳng định lập trường “trung lập, không liên minh”, và đều không trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh.

    “Trung Quốc luôn chỉ tay cảnh báo giới lãnh đạo Việt Nam phải có chính sách đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, ông Tô Lâm có lý do để thăm cấp Nhà nước đến Cuba, sau chuyến đi đến Hoa Kỳ, ngoài lý do lịch sử và một số hoài niệm về cách mạng (Cộng Sản). Trong khi, nếu xét về kinh tế, thì chuyến đi đến Cuba hoàn toàn vô nghĩa, lãng phí thời gian, bởi ông Tô Lâm đáng lẽ ra có thể đến ve vãn đầu tư nước ngoài từ Canada hoặc châu Âu, hoặc dành nhiều thời gian hơn ở Hoa Kỳ. Hay chuyến thăm tới Ireland, một trung tâm công nghệ cao ở Châu Âu, và dù không phải là một quốc gia lớn, nhưng ưu đãi thuế quan của nước này khiến Ireland trở thành một trung tâm đầu tư rất quan trọng ở Châu Âu, và cũng có những trường đại học tuyệt vời, mà Việt Nam muốn tăng cường trao đổi giáo dục”.

    Theo nhà nghiên cứu Zachary Abuza, ông Tâm Lô có vẻ rất muốn giữ hai chức vụ cùng lúc, như trường hợp của chủ tịch Tập Cận Bình ở Trung Quốc, vừa là lãnh đạo Cộng Sản, vừa là chủ tịch nước. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cho rằng “có những lo ngại” về việc ông Tô Lâm đang vi phạm quy tắc “do tập thể lãnh đạo”, quyền lực tối cao được “chia sẻ trong Tứ trụ”.

    Và chiều 21/10, trong ngày họp đầu tiên của kỳ họp thứ 8, Quốc Hội Việt Nam đã bầu ông Lương Cường, ủy viên bộ Chính Trị, thường trực ban Bí thư, giữ chức chủ tịch nước, nhiệm kỳ 2021-2026.

  • Việt Nam muốn Trung Quốc hỗ trợ trợ xây dựng đường sắt ở miền bắc để kết nối sáng kiến "Hai hành lang, Một vành đai" với "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI) của Trung Quốc. Theo ông Hùng Ba, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, hệ thống đường sắt này "sẽ kết nối Việt Nam với các nước châu Âu - Tây Á qua tuyến đường sắt liên vận. Việt Nam sẽ thành cửa ngõ để Trung Quốc kết nối với các nước ASEAN, đồng thời là đầu mối quan trọng kết nối ASEAN với châu Âu và Trung Á".

    Sáng kiến « Hai hành lang, Một vành đai », được Việt Nam và Trung Quốc thông qua năm 2004, là cụm từ gọi tắt của hành lang « Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng » và hành lang « Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng » và « Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ ». Sau nhiều năm cân nhắc bên phía Việt Nam, vấn đề hợp tác đường sắt được nhấn mạnh trong Điều 7 Tuyên bố chung ngày 20/08/2024, nhân chuyến công du Trung Quốc của tổng bí thư-chủ tịch nước Tô Lâm.

    Việt Nam được lợi ích gì từ những dự án này ? Vai trò của Việt Nam trong kế hoạch Vanh đai và Con đường của Trung Quốc ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.

    RFI : Việt Nam dự kiến nhiều kế hoạch hiện đại hóa hệ thống đường sắt từ lâu. Vào tháng 04/2024, sau khi thông báo ý định trên, Việt Nam đã kêu gọi Trung Quốc hỗ trợ trong khi dường như Việt Nam đã lưỡng lự trong thời gian dài. Tại sao lại chọn thời điểm này ? Và tại sao lại là Trung Quốc ?

    Laurent Gédéon : Dường như Trung Quốc đang tìm cách thúc đẩy mối quan hệ kinh tế với Việt Nam thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng để xây dựng thiện chí và niềm tin song phương. Điều này đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh trong bối cảnh mất lòng tin dai dẳng do các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông.

    Chúng ta thấy mong muốn hòa dịu và xích lại gần nhau giữa hai nước từ nhiều năm nay, được thể hiện rõ qua các chuyến thăm của nhiều quan chức cấp cao. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến thăm chính thức Việt Nam vào ngày 12 và 13/12/2023 theo lời mời của người đồng cấp Việt Nam lúc bấy giờ là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Trong chuyến thăm này, ông Tập đã nêu một dự án xây dựng đường sắt liên doanh có thể nằm trong khuôn khổ Sáng kiến ​Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc.

    Đọc thêm : Thăm Trung Quốc, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ thúc đẩy kết nối đường sắt giữa hai nước

    Sau đó, chủ đề này đã được thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc lại trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 24 đến 27/06/2024. Ông cho biết Việt Nam có kế hoạch xây dựng 3 tuyến đường sắt nối Trung Quốc trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường, cụ thể là ba tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ; Lạng Sơn - Hà Nội và Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng.

    Cuối cùng, chuyến thăm Bắc Kinh của tổng bí thư chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm vào ngày 19-20/08/2024 đã cho phép Trung Quốc và Việt Nam ký kết 14 thỏa thuận, nhằm tăng cường thương mại và kết nối biên giới, đặc biệt là kế hoạch đường sắt. Nhân dịp này, ông Tập Cận Bình khẳng định Việt Nam là « ưu tiên » trong chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Ông cũng cam kết mở rộng Sáng kiến ​Vành đai và Con đường bằng cách thúc đẩy xây dựng đường sắt, đường cao tốc và hải cảng.

    Tất cả những công bố và quyết định này đều nhất quán với Quy hoạch tổng thể đến năm 2050 với mục tiêu là kết nối mạng lưới đường sắt Việt Nam với tuyến đường sắt xuyên Á thông qua Trung Quốc và với mạng lưới đường sắt ASEAN thông qua Lào và Cam Bốt. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch, hai tuyến đường sắt cao tốc sẽ được xây dựng từ nay đến năm 2030 và sẽ nối các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc với các cảng trọng điểm Hải Phòng và Hà Nội.

    Cho nên theo tôi, có lẽ bối cảnh chung hiện nay được đánh dấu bởi nhiều yếu tố : mong muốn phát triển đường sắt của Việt Nam, nguồn vốn dồi dào và sẵn có bên phía Trung Quốc và cuối cùng là mong muốn của Trung Quốc giảm bớt căng thẳng với nước láng giềng phương Nam vào lúc căng thẳng có xu hướng gia tăng ở eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông. Tất cả những yếu tố này giải thích cho động lực phát triển hiện nay trong hợp tác Việt - Trung.

    RFI : Người ta thường nói đến rủi ro hoặc « bẫy nợ » khi nhắc đến các khoản vay từ Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những tác động như thế nào nếu nhận hỗ trợ từ Trung Quốc ? Liệu có thể có nguy cơ nào đó phụ thuộc vào Trung Quốc ?

    Laurent Gédéon : Trong chuyến đi Trung Quốc vào tháng 06/2024, thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết chính phủ Việt Nam sẽ yêu cầu các cơ quan nghiên cứu soạn thảo một hiệp định liên chính phủ về việc triển khai ba tuyến đường sắt, trong đó nhấn mạnh đến « các khoản vay ưu đãi » từ Trung Quốc, « chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực » để Việt Nam có thể tự phát triển ngành công nghiệp đường sắt.

    Cũng cần lưu ý rằng bối cảnh hiện tại khá thuận lợi cho Việt Nam. Việc chuỗi cung ứng Mỹ và phương Tây rời khỏi Trung Quốc và tái tổ chức hoạt động, trong đó có Việt Nam, cũng đã buộc Trung Quốc phải tổ chức lại các mạng lưới chuỗi cung ứng sản xuất hướng sang Việt Nam.

    Đọc thêm : Việt Nam gia tăng sử dụng đường sắt Trung Quốc xuất hàng sang châu Âu

    Nhưng cũng cần phải cảnh giác vì Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt là thép, nhựa và linh kiện điện tử thiết yếu để sản xuất thành phẩm. Động lực kinh tế đã làm gia tăng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc và lên đến 50 tỷ đô la vào năm 2023, tăng gần 50% trong 5 năm qua. Do đó, sự hội nhập của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu về cơ bản là nhờ vào hàng nhập khẩu Trung Quốc và bị phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Rõ ràng, sự phụ thuộc này, nếu đi kèm với khoản nợ đáng kể với Trung Quốc liên quan đến đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường sắt, có thể gây ra rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam, kể cả « bẫy nợ ».

    Tuy nhiên, chúng ta có thể lưu ý rằng bẫy nợ cho đến nay vẫn gây nhiều tác động đến các quốc gia nhỏ hơn Việt Nam, như Sri Lanka hay Montenegro. Tương tự, cần phải nhớ rằng lợi ích đầu tiên của một chủ nợ, kể cả đó là một Nhà nước, là phải thu hồi vốn cùng với lợi nhuận, hơn là thấy « con nợ » chìm sâu trong vòng xoáy nợ nần. Dù sao vẫn phải luôn cảnh giác vì một Việt Nam yếu kém và phụ thuộc về tài chính có thể trở thành một lá bài về địa-chính trị cho Trung Quốc.

    RFI : Ngược lại, đâu là những lợi ích mà Việt Nam có thể được hưởng từ những chương trình đầu tư này ?

    Laurent Gédéon : Nhờ kết nối, vận tải hàng hóa và du lịch được cải thiện, Việt Nam có thể thu được nhiều lợi ích từ những khoản đầu tư này, cả về kinh tế lẫn chính trị :

    Trước hết, nhờ tăng cường kết nối, Việt Nam sẽ có thể tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương với các nước láng giềng ASEAN cũng như với Trung Quốc. Số lượng container được vận chuyển mỗi năm bằng đường sắt về nguyên tắc sẽ tăng lên, song song đó là giảm chi phí về hậu cần.

    Tiếp theo, ngành du lịch cũng sẽ được hưởng lợi nhiều nhờ sự gia tăng kết nối đường sắt này. Ngoài ra, sức hấp dẫn sẽ được tăng cường do tiết kiệm được đáng kể thời gian nhờ các mạng lưới đường sắt mới. Ví dụ, một chuyến tàu chở hàng từ Thành Đô hiện giờ mất khoảng bảy ngày để đến Hà Nội. Trước đây, hàng hóa từ Trùng Khánh về Việt Nam mất trung bình 20 ngày do phải đi đường biển qua Thượng Hải.

    Đọc thêm : Bắc Kinh và Hà Nội xem xét nâng cấp tuyến đường sắt xuyên qua vùng giàu đất hiếm của Việt Nam

    Cuối cùng, một tuyến đường sắt từ Trung Quốc xuyên qua Việt Nam có thể sẽ nâng tầm quan trọng của Việt Nam hơn về mặt chiến lược đối với Bắc Kinh và nâng cao vị thế của Hà Nội nếu nhìn từ góc độ Trung Quốc. Khi đó, Trung Quốc có lẽ sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc để Việt Nam là đối tác thân thiết trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang được tái cấu trúc, cũng như cạnh tranh Mỹ - Trung.

    Về mặt thực tiễn, các tuyến đường sắt được quy hoạch sẽ tích hợp mạng lưới của Việt Nam vào mạng lưới đường sắt xuyên Á, hiện có ba tuyến : tuyến ở giữa đi từ Côn Minh đến Lào và Bangkok ; tuyến phía tây đi qua Miến Điện và Thái Lan ; tuyến phía đông dự kiến đi qua Việt Nam, Cam Bốt và Thái Lan và kéo dài xuống phía nam tới Malaysia và Singapore.

    Cũng cần lưu ý rằng tuyến tàu chở hàng Trùng Khánh - Hà Nội hiện đã kết nối Việt Nam vào hành lang thương mại quốc tế đường bộ-đường biển mới International Land-Sea Trade Corridor (ILSTC). Xin nhắc lại rằng đây là hành lang thương mại và hậu cần có trung tâm hoạt động ở Trùng Khánh và kết nối với 190 cảng ở 90 quốc gia. ILSTC là một trong số nhiều hành lang thương mại trong Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường.

    Ngoài ra, còn phải nói đến tuyến đường sắt giữa Việt Nam và Lào đang được nghiên cứu, theo dự kiến sẽ được kết nối với tuyến đường sắt hiện có giữa Trung Quốc và Lào. Dự án này sẽ giúp Lào tiếp cận với lĩnh vực hàng hải và sẽ tạo ra các luồng trao đổi kinh tế có lợi cho Việt Nam.

    RFI : Liệu thông qua những tuyến đường này có thể coi là Việt Nam tham gia vào dự án Con đường tơ lụa mới của Trung Quốc không ?

    Laurent Gédéon : Trước tiên cần lưu ý rằng xét về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở cực đông của tất cả các tuyến đường và điều này khiến Việt Nam phần nào nằm bên rìa so với những nước khác. Việt Nam chỉ có thể được đưa vào dự án Con đường Tơ lụa mới thông qua hai tuyến : đường biển và hành lang Đông Dương. Liên quan đến Con đường Tơ lụa trên biển, Việt Nam nằm ngoài dự án này vì chỉ có cảng Hải Phòng nằm trên tuyến đường dự tính ban đầu. Cho nên, khả năng lớn nhất để Việt Nam hội nhập vào Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) là thông qua các tuyến trên đất liền.

    Về mặt chính thức, Tuyên bố chung về Tăng cường Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc và Xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai được công bố vào ngày 20/08, nhân chuyến thăm của Tô Lâm tới Bắc Kinh, nhấn mạnh đến việc « Hai bên nhất trí thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, thực hiện hiệu quả kế hoạch hợp tác gắn sáng kiến ​​Việt Nam « Hai hành lang, một vành đai » với sáng kiến « Một vành đai, một con đường » của Trung Quốc ; đẩy mạnh « kết nối cứng » về đường sắt, đường cao tốc và cơ sở hạ tầng biên giới ; […] ; Trung Quốc cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển quy hoạch các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn ». Do đó, việc đưa Việt Nam vào hệ thống, đặc biệt là những con đường tơ lụa mới trên đất liền, có lẽ là điều hiển nhiên.

    Đọc thêm : Việt Nam-Trung Quốc nhất trí xây dựng “Cộng Đồng Chia Sẻ Tương Lai”

    Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý đến một yếu tố mang tính chiến lược hơn và rất được Trung Quốc quan tâm trong kế hoạch này. Chúng ta thấy rằng tuyến Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng cũng kết nối cảng Phòng Thành Cảng ở vùng duyên hải Quảng Tây. Trong khi cảng này nằm gần dự án kênh đào Bình Lục (Pinglu). Kênh này được dự kiến kết nối Nam Ninh, thủ phủ khu tự trị Quảng Tây, với vịnh Bắc Bộ. Thông qua tuyến đường này, hàng hóa có thể từ eo biển Malacca đi bằng đường biển vào Quảng Tây, rồi từ đó được chuyển vào sâu trong lục địa Trung Quốc, tránh đi qua eo biển Đài Loan.

    Rõ ràng lợi ích của dự án này là rất lớn, ở cấp độ chiến lược bởi vì trong trường hợp xảy ra xung đột ở eo biển Đài Loan, Trung Quốc vẫn có thể vận chuyển thực phẩm và nguyên liệu thô qua kênh đào này, ngay cả khi toàn bộ tuyến đường Biển Đông, từ Hồng Kông đến Hoàng Hải, bị ngăn chặn. Với giả thuyết như vậy, chúng hiểu rằng Bắc Kinh cần phải duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam để những luồng vận tải này không bị gián đoạn.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.

  • Tại sao Việt Nam và Philippines không ngồi lại đối thoại với nhau về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông để hợp lực đối phó với nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc ? Câu hỏi này từng được các nhà nghiên cứu Pháp nêu lên khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt (1). Những diễn biến gần đây cho thấy hai nước láng giềng Đông Nam Á đang có những bước đi đối thoại, thúc đẩy hợp tác trong vấn đề Biển Đông. Trung Quốc có chiến lược đối phó như thế nào ?

    Việt Nam - Philippines quyết định phối hợp về vấn đề Biển Đông

    Kể từ đầu năm 2024, Việt Nam và Philippines liên tục có những hoạt động thúc đẩy hợp tác song phương. Bắt đầu là chuyến công Việt Nam của tổng thống Philippines Marcos Jr. vào cuối tháng 01. Tại đất nước được ông Marcos đánh giá là “đối tác chiến lược duy nhất của Philippines” ở Đông Nam Á, ngày 30/01, hai bên đã ký kết hai bản ghi nhớ về an ninh về “ngăn ngừa sự cố ở Biển Đông” và “hợp tác trên biển” giữa lực lượng tuần duyên hai nước. “Những thỏa thuận này có thể hiểu là sẽ có lợi cho cả hai nước”, theo nhận định với RFI Tiếng Việt ngày 26/02 của giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Đông Nam Á Daniel K. Inouye (DKI APCSS) tại Hawai, Mỹ. Và “cũng có thể coi là bước đầu tiên tiến tới một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông”.

    Đây là cơ sở để phát huy những sáng kiến hợp tác tiếp theo. Cuối tháng 07, tàu CSB 8002 rời cảng Việt Nam để đến Philippines giao lưu và lần đầu tiên tham gia huấn luyện chung với đối tác Philippines ngày 09/08. Ngay sau đó, Lực lượng tuần duyên Philippines thông báo sẽ gửi một tàu đến Việt Nam vào cuối năm để thúc đẩy hợp tác hàng hải giữa hai nước. Trước đó, trong tháng 6 và 7, cả hai nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc lần lượt nộp lên Liên Hiệp Quốc Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Biển Đông.

    Đến cuối tháng 08, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Philippines trong ba ngày từ 29-31/08. Hai bộ trưởng chứng kiến lễ ký Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa đường biển ; Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quân y. Sự kiện này được bộ trưởng Quốc Phòng Philippines Teodoro đánh giá là Manila và Hà Nội “đã thấy một nền tảng hợp tác vững chắc để xây dựng niềm tin”.

    Hợp tác Việt Nam - Philippines và tác động đến Trung Quốc

    Liệu hàng loạt sự kiện thắt chặt hợp tác về an ninh và hàng hải giữa Việt Nam và Philippines trong những tháng gần đây có trở thành một mối đe dọa cho Trung Quốc ? Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhận định :

    “Theo quan điểm của tôi, đây là vấn đề hợp tác kỹ thuật hơn là cách tiếp cận chiến lược của chính quyền Việt Nam. Vấn đề này nằm trong khuôn khổ hợp tác quân sự và an ninh cổ điển, kiểu hợp tác này cũng tồn tại với lực lượng tuần duyên Trung Quốc. Theo tôi, trước tiên chúng ta có thể thấy sáng kiến ​​này phản ánh tính thực dụng của các nhà lãnh đạo Việt Nam và minh họa cho chính sách giữ khoảng cách cân bằng vốn là đặc trưng của ngoại giao Việt Nam. Hợp tác về mặt quân sự với Philippines cho phép Việt Nam thể hiện là một chủ thể đáng tin cậy trước các nước khác trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc, và có lợi thế là thể hiện rằng Hà Nội không từ bỏ tham vọng của họ ở Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa.

    Các cuộc diễn tập chung vào tháng 08/2024, giữa thủy thủ Việt Nam và Philippines, đã xác nhận điểm này. Hai bên tập trung vào hỗ trợ và cứu hộ chứ không phải vào các hành động tấn công. Hai bên không gửi bất kỳ thông điệp thù nghịch nào tới Trung Quốc. Người ta cũng thấy rằng Việt Nam rất kín tiếng trong giai đoạn đỉnh điểm căng thẳng gần đây giữa Manila và Bắc Kinh. Trong những điều kiện này, ít có khả năng Bắc Kinh nhìn nhận là có một mối đe dọa trong diễn biến hiện nay về quan hệ giữa Việt Nam và Philippines”.

    Bắc Kinh hung hăng với Manila, “hòa dịu” với Hà Nội

    Trên thực tế, Trung Quốc cũng có cách tiếp cận và ứng xử rất khác nhau đối với Việt Nam và Philippines.

    “Theo tôi, đây là một diễn biến rất thú vị, trái ngược với những gì vẫn diễn ra cách đây 3 năm. Ngày nay, dường như có một cách tiếp cận khác từ phía chính quyền Trung Quốc đối với vấn đề Philippines và Việt Nam. Tôi nghĩ Trung Quốc có lợi khi Việt Nam và Philippines trái ngược nhau về lựa chọn chiến lược. Một lựa chọn khác của Trung Quốc, đó là để Philippines và Việt Nam duy trì quan hệ ở mức độ hợp tác kỹ thuật, chứ không phải là có tầm nhìn chung chiến lược vì điều này có thể sẽ gây bất lợi cho Trung Quốc. Chúng ta vẫn biết là Phililppines xích lại gần Hoa Kỳ hơn từ vài năm nay nhưng Việt Nam vẫn giữ khoảng cách với Mỹ. Cho nên vẫn cần phải theo dõi thêm về diễn biến mới này. Ngoài ra, những thay đổi chính trị gần đây ở Việt nam có thể cho thấy rằng xu hướng hiện nay có lẽ là xu hướng có lợi cho việc ổn định quan hệ với Trung Quốc hơn là gây căng thẳng”.

    Về chiến lược đối phó với những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với hơn 80% diện tích Biển Đông, Việt Nam và Philippines có chiến lược hoàn toàn khác nhau. Philippines công khai những sự cố, tranh chấp thậm chí là xô xát gây thương tích với tàu của lực lượng hải cảnh Trung Quốc, đặc biệt là ở hai điểm nóng bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và bãi cạn Sa Bin (Sabina). Bắc Kinh cũng không ngừng gia tăng sức ép đối với tàu của lực lượng tuần duyên Philippines cũng như chính quyền Manila. Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon phân tích :

    “Cần phải nhớ rằng tầm nhìn địa-chiến lược của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở biên giới Biển Đông mà còn xa hơn, một bên là phía đông Thái Bình Dương và bên kia là Ấn Độ Dương. Do đó, chắc chắn là sự chú ý chiến lược của Trung Quốc hiện đang chuyển hướng mạnh mẽ sang Philippines trong bối cảnh áp lực ngày càng tăng từ Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, trong đó có thông qua Manila”.

    Vì Bắc Kinh bận tập trung buộc tàu của Philippines rời khỏi hai bãi cạn, Hà Nội được cho là đã tận dụng thời gian lắng dịu trong căng thẳng với Trung Quốc ở Biển Đông để tăng tốc bồi đắp ở ít nhất 4 trên 6 rạn san hô chính ở quần đảo Trường Sa. Ngày 09/09, trang web Chathamhouse cho biết “các hình ảnh vệ tinh cho thấy hoạt động cải tạo đất quy mô lớn đang diễn ra tên các rạn san hô do Việt Nam kiểm soát. Hoạt động này, được xác định vào năm 2022, đã tăng đáng kể về quy mô trong năm nay (2024) và có vẻ sẽ tiếp tục”.

    Ví dụ tại Bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef), tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải AMTI, trụ sở tại Washington (Mỹ), cho rằng có thể có một đường băng dài 3 km để chiến đấu cơ tầm xa có thể hạ cánh. Đảo Nam Yết (Namyit), sau khi được cải tạo trên diện rộng, hiện là thực thể lớn thứ hai của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, sau bãi Thuyền Chài. Theo hình ảnh được công ty Maxar Technologies chụp tháng 06/2024, một bến cảng lớn đã được nạo vét bên trong rạn san hô.

    Tuy nhiên, tốc độ bồi bắp của Việt Nam không thể bằng Trung Quốc. Điều đáng nói là mặc dù thường xuyên phản đối các yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, nhưng Trung Quốc lại rất ít bình luận về các hoạt động cải tạo đất hiện tại của Hà Nội. Lý do tại sao ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon giải thích :

    “Dưới thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã cải thiện quan hệ chính trị với Trung Quốc bằng cách tránh để gia tăng cạnh tranh lãnh thổ giữa hai nước. Ngoài ra, việc nâng cấp mối quan hệ Việt-Trung lên tầm “cộng đồng chung vận mệnh”, theo phát biểu của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 12/2023 nhân chuyến thăm Việt Nam, mà Hà Nội coi đây là “Xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc”, cũng là một bước tiến quan trọng mà Hà Nội từng do dự trước đó, chủ yếu vì lý do tranh chấp trên biển giữa hai nước.

    Có nghĩa là nếu quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh dường như đang đi theo hướng ngày càng hòa bình hơn thì điều này không ngăn cản được những căng thẳng lẻ tẻ trên thực địa. Do đó, Việt Nam duy trì hợp tác quân sự tích cực với Philippines, điều này cho phép Hà Nội duy trì uy tín trước cả Bắc Kinh cũng như Washington và các đồng minh của Mỹ trong khu vực”.

    Điều đáng chú ý, được nhà nghiên cứu Laurent Gédéon nhấn mạnh, là sự cải thiện mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines tại các vùng biển tranh chấp, đặc biệt là các vụ đối đầu giữa lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc và Philippines. Dù không chính thức lên tiếng về việc Hà Nội thắt chặt hợp tác với Manila nhưng Bắc Kinh không quên gián tiếp “nhắc nhở” Hà Nội :

    “Người ta thấy rằng ngay trước khi Việt Nam chuẩn bị tổ chức cuộc tập trận chung trên biển với Philippines vào ngày 09/08, trong vòng chưa đầy một tuần, một drone của Trung Quốc đã bay sát bờ biển Việt Nam hai lần, vào ngày 02 và ngày 07/08. Vụ xâm nhập thứ hai diễn ra ba ngày sau khi ông Tô Lâm được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng điều đáng chú ý lần này là Trung Quốc đã cố tình kích hoạt đèn hiệu của máy bay, mặc dù họ không hề làm như vậy trước đó. Việt Nam chưa lên tiếng về vụ việc này và có thể coi đây là tín hiệu chính trị từ Bắc Kinh nhằm làm giảm căng thẳng”.

    Một tháng sau sự kiện này, Vùng Cảnh sát biển Việt Nam 3 đã tổ chức một cuộc tập trận bắn đạn thật hiếm hoi, từ ngày 05 đến 11/09, ở ngoài khơi tỉnh Bình Thuận, để kiểm tra phản ứng trước các mối đe dọa an ninh và bảo vệ chủ quyền.

    Ngay khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Hai nước đã ra thông cáo chung ngày 20/08 và vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông được nêu trong Điểm 10 của thông cáo : “(…) Hai bên nhất trí (…) cùng duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông (…)”, phù hợp với “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp”.

    (1) Việt Nam, Malaysia, Philippines: Gác tranh chấp, chống Trung Quốc ở Biển Đông?

  • Sau nhiều thăng trầm, quan hệ giữa Việt Nam và Vatican đã đạt được một bước tiến lớn với việc thông qua “Thỏa thuận Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng Đại diện thường trú Tòa thánh tại Việt Nam”. Thỏa thuận đã được thông qua vào tháng 7/2023 khi chủ tịch nước của Việt Nam vào lúc đó là Võ Văn Thưởng thăm Tòa Thánh và gặp giáo hoàng Phanxicô.

    Đến ngày 23/12 vừa qua, Tòa thánh Vatican đã chính thức công bố việc Tổng Giám mục Marek Zalewski được giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Đại diện thường trú đầu tiên của Tòa thánh tại Việt Nam. Tổng Giám mục Marek Zalewski nguyên là Sứ thần Tòa thánh tại Singapore và đã kiêm nhiệm Đặc phái viên không Thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam từ năm 2018. Việt Nam là quốc gia Cộng Sản duy nhất mà Vatican có đại diện thường trú.

    Một sự kiện đáng chú ý khác trong quan hệ Việt Nam - Vatican đó là vào tháng 4 năm nay, lần đầu tiên một ngoại trưởng của Tòa thánh đến thăm Việt Nam, đó là Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher. Chính quyền Hà Nội thì từ lâu cũng đã công nhận vai trò của Giáo hội Công giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam thông qua các hoạt động thiện nguyện, giáo dục, y tế, dạy nghề….

    Tuy đã đạt được những bước tiến lớn như vậy, Hà Nội và Vatican cho tới nay vẫn chưa có dấu hiệu nào sẽ sớm bình thường hóa bang giao. Thậm chí, trong chuyến tông du của giáo hoàng Phanxicô đến Đông Nam Á và Thái Bình Dương, ngài cũng đã không đặt chân đến Việt Nam mặc dù trước đó giáo hoàng cho biết rất muốn là lãnh đạo đầu tiên của Giáo hội Công Giáo Hoàn Vũ đến thăm quốc gia vốn đã cắt đứt bang giao với Vatican sau năm 1975.

    Vì sao giáo hoàng đã không đến thăm Việt Nam trong chuyến tông du Đông Nam Á và Thái Bình Dương lần này? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 02/09/2024, giảng viên lịch sử Đông Nam Á Trần Thị Liên Claire, chuyên về lịch sử tôn giáo ở Việt Nam, Đại học Paris Cité, giải thích:

    “Rõ ràng đó là do những thay đổi nhân sự lãnh đạo chính trị trong những tháng gần đây. Trước hết là vụ từ chức bất ngờ ngày 20/03 của chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, người đã ký thỏa thuận với Roma về việc bổ nhiệm một đại diện thường trực của giáo hoàng ở Hà Nội. Tiếp đến là việc bổ nhiệm ông Tô Lâm làm chủ tịch nước ngày 22/05. Rồi đến ngày 19/07, tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng qua đời, sau đó ông Tô Lâm được Bộ Chính trị giao kiêm nhiệm tổng bí thư ngày 03/08.

    Những thay đổi nhân sự lãnh đạo kể từ tháng 3, và trong thời gian đó tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp qua đời nên rất khó cho Việt Nam đón tiếp giáo hoàng. Tôi cũng xin lưu ý là hồng y Parolin, nhân vật giống như là thủ tướng của Vatican, lúc đó đã thay mặt giáo hoàng gởi lời chia buồn đến chủ tịch Việt Nam và đã đề cao vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc cải thiện quan hệ giữa Vatican với Việt Nam. Bản thân ông Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng đến thăm Vatican năm 2013 và gặp giáo hoàng Benedicto 16.

    Đã có rất nhiều cuộc gặp cấp cao giữa hai bên, nhưng bối cảnh chính trị xáo trộn của Việt Nam trong những tháng gần đây giải thích vì sao không thể tổ chức chuyến thăm của giáo hoàng.”

    Như vậy là gần như sẽ không còn cơ hội cho giáo hoàng Phanxicô đến thăm Việt Nam như mong muốn của ngài, bởi vì vị lãnh đạo Giáo hội Hoàn vũ năm nay đã 87 tuổi rồi, sau chuyến tông du kéo dài đến 12 ngày lần này chắc là ngài sẽ không còn đủ sức để trở lại châu Á. Đây quả là điều rất đáng tiếc vì quan hệ giữa Tòa Thánh với Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong những thập niên qua, đặc biệt là thái độ nghi ngại của Hà Nội đối với Tòa Thánh đã giảm đi rất nhiều, thể hiện qua việc chấp nhận cho Vatican bổ nhiệm một đại diện thường trú ở Việt Nam, theo nhận xét của nhà nghiên cứu về lịch sử tôn giáo Việt Nam Trần Thị Liên Claire:

    “Năm 2023 đã cho thấy là sự nghi ngại của phía Việt Nam đối với Vatican đã xuống đến mức thấp nhất. Việc chủ tịch nước Võ Văn Thưởng vào tháng 07/2023 ký kết thỏa thuận lần đầu tiên chấp nhận cho Tòa Thánh bổ nhiệm một đại diện không thường trực ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng. Đây là vị đại diện thường trực đầu tiên kể từ khi vị khâm sứ của Tòa Thánh ở miền bắc bị trục xuất vào năm 1959 và sau đó là khâm sứ ở miền nam bị trục xuất năm 1975.

    Cho dù Tổng Giám mục Marek Zalewski chỉ là đại diện thường trú chứ chưa phải là sứ thần hay khâm sứ của Tòa Thánh, nhưng coi như đây là một đại diện của giáo hoàng, một chức vụ có tính biểu tượng cao và quan trọng.

    Năm 2023 đánh dấu một bước ngoặt, nhất là với lời mời giáo hoàng đến thăm Việt Nam của chủ tịch nước lúc đó là Võ Văn Thưởng. Lời mời này được đưa ra một ngày sau khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kết thúc chuyến thăm Việt Nam.

    Rất có thể là chính sách của Việt Nam sẽ không thay đổi. Cho dù ông Tô Lâm không được xem là một nhân vật cấp tiến mà đúng hơn là một nhân vật bảo thủ, ở Việt Nam, chính sách tôn giáo không chỉ có liên hệ với tôn giáo, mà còn liên hệ với những mục tiêu về ngoại giao, kinh tế, chiến lược. Vị đại diện thường trực của Tòa Thánh sẽ làm việc với Ban Tôn giáo của chính phủ, với bộ Ngoại Giao và trong vài tháng nữa chúng ta sẽ biết chính sách của ông Tô Lâm sẽ như thế nào.

    Có thể nói là kể từ khi thời Đổi Mới, thái độ nghi ngại đó đã giảm đi rất nhiều. Không phải không còn những bất đồng, nhưng tình hình chính trị ở sẽ không ảnh hưởng đến những thay đổi trong ba thập niên qua.”

    Nói chung, đối với giảng viên Trần Thị Liên Claire, có thể nói là tiến trình bình thường hóa bang giao giữa Việt Nam và Vatican diễn ra chậm nhưng chắc:

    “Như tôi đã nói, vẫn còn những bất đồng, nhưng tôi muốn nhấn mạnh là đối thoại giữa hai bên chưa bao giờ bị gián đoạn, nhờ thái độ thực dụng của ba nhân tố chính: Đảng Cộng sản Việt Nam, Vatican và Hội đồng Giám mục Việt Nam.

    Diễn biến từ năm 1989, khi đại diện đầu tiên của giáo hoàng, hồng y Etchegaray, đến thăm Việt Nam, cho thấy tiến trình bình thường hóa bang giao từ 35 năm qua tuy chậm nhưng chắc. Tuy chưa có bình thường hóa, tức là chưa có một sứ thần của Tòa Thánh ở Việt Nam, nhưng từ năm 2007 đã có đến 5 lãnh đạo cao cấp của Việt Nam đã được tiếp ở Vatican: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai chủ tịch nước Trần Đại Quang và Võ Văn Thưởng. Không có một nước Cộng Sản nào là các lãnh đạo viếng thăm Vatican nhiều như Việt Nam, cho thấy là trao đổi diễn ra ở cấp cao nhất, chứ không chỉ ở cấp bộ trưởng Ngoại Giao.

    Những trao đổi cũng đã có từ năm 2009 với việc thành lập nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican. Nhóm này vẫn họp mỗi năm từ 2009 và đã đạt được kết quả là bổ nhiệm một đại diện thường trực của Tòa Thánh ở Việt Nam. Đối thoại giữa hai bên, chưa bao giờ bị gián đoạn, cũng đã giúp giải quyết vấn đề bổ nhiệm các giám mục, để cho các tu sĩ linh mục được đào tạo ở khắp nơi trên thế giới, cho phép Caritas, tổ chức thiện nguyện của Giáo hội, được hoạt động trở lại từ năm 2008.

    Có thể nói là đối thoại giữa từ ba thập niên qua đã giúp đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng đã cần rất nhiều thời gian. Câu hỏi đặt ra bây giờ là Việt Nam có thể lập quan hệ ngoại giao với Vatican trước Trung Quốc hay không? Liệu Trung Quốc có chấp nhận điều đó hay không? Cả Vatican và Việt Nam đều phải tính đến phản ứng của Trung Quốc. Hồng y Parolin, vốn vẫn rất tích cực trong các cuộc đối thoại, đã nhiều lần nói rằng mô hình của Việt Nam có thể được áp dụng cho Trung Quốc, nhất là về việc bổ nhiệm các giám mục, một vấn đề rất nhạy cảm. Điều chính yếu đối với ba tác nhân là phải duy trì đối thoại và giải quyết theo từng trường hợp một. Tôi nghĩ là sự hiện diện của Tổng giám mục Zalewski ở Hà Nội cũng sẽ giúp giải quyết vấn đề đó.

    Việc bình thường hóa quan hệ sẽ không diễn ra ngay trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, cũng như trong bối cảnh quan hệ giữa Vatican với Trung Quốc. Nhưng suy cho cùng thì điều đó có thật sự quan trọng không? Chủ yếu là phải làm sao cho cộng đồng tín hữu Công Giáo luôn có điều kiện thuận lợi nhất để sống đạo. Đó mới thật sự là điều quan trọng đối với Giáo hội Việt Nam và Vatican.”

    Thật ra thì theo cái nhìn của bà Trần Thị Liên Claire, đối với chính quyền Hà Nội, quan hệ tốt với Tòa Thánh có lợi cả về mặt kinh tế, lẫn địa chính trị:

    "Việt Nam là một trường hợp đặc biệt trong số các quốc gia Cộng sản, nhất là ở châu Á. Chính sách tôn giáo của Việt Nam không chỉ mang tính tôn giáo mà nằm trong chính sách chung về kinh tế, địa chính trị và quân sự.

    Trước hết là về kinh tế. Từ năm 1998, trong đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế được ban hành dưới thời Bill Clinton, Hoa Kỳ gắn liền quan hệ kinh tế với tự do tôn giáo. Vì muốn bằng mọi giá hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, phát triển hiệp định tự do mậu dịch với Hoa Kỳ và Liên Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải nỗ lực cải thiện tự do tôn giáo vì lý do kinh tế. Những tiến bộ đó đã góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành quả kinh tế quan trọng. Đảng phải đạt thành công kinh tế để bảo vệ tính chính danh của mình, mục tiêu là duy trì mức tăng trưởng cao. Năm nay Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng đứng hàng thứ hai ở Đông Nam Á. Phải làm sao giữ chân các nhà đầu tư ngoại quốc, nhất là trong bối cảnh nhiều công ty đa quốc gia đã rời bỏ Trung Quốc để chuyển sang Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế đó, Việt Nam cần có quan hệ tốt với Vatican. Tuy đó không phải là yếu tố quyết định, nhưng mối quan hệ tốt đó là nhằm chứng tỏ Việt Nam đã có những nỗ lực về tự do tôn giáo.

    Lý do thứ hai là về mặt địa chính trị quốc tế. Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2023-2025 và trước đó đã là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021, quan hệ tốt với Vatican cũng là thể hiện hình ảnh một quốc gia đáng tin cậy. Cho dù không thể so sánh Vatican với Hoa Kỳ, Liên Âu hay với các cường quốc châu Á như Ấn Độ hay Nhật Bản, nhưng Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách ngoại giao "cây tre", tức là giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc. Tòa Thánh chỉ là một nước nhỏ, nhưng là một quốc gia có tính biểu tượng cao.

    Lý do cuối cùng là về mặt quân sự. Theo chính sách đa phương hóa, Việt Nam phải tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông. Quan hệ tối với Vatican cũng nhằm chứng tỏ với các cường quốc phương Tây là Việt Nam vẫn chủ trương đối thoại với các cường quốc này. Việt Nam hiện vẫn cố tìm những đối trọng với láng giềng Trung Quốc hùng mạnh. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm Hoa Kỳ vào năm 2015 và được tổng thống Mỹ đón tiếp tại Nhà Trắng. Ngoại trưởng Antony Blinken đã đến Việt Nam chia buồn sau lễ quốc tang ông Nguyễn Phú Trọng trong tháng 7 và ông đã nhấn mạnh đến mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ với Việt Nam. Tân chủ tịch nướcTô Lâm cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác này và đã hoan nghênh sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam vững mạnh, độc lập, tự chủ và thịnh vượng."

  • Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã đến New York cuối tuần qua để dự Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Theo thông báo của Nhà Trắng, nhân djp này ông Tô Lâm sẽ gặp tổng thống Mỹ Joe Biden hôm thứ tư 25/09/2024 bên lề Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm liệu có sẽ là cơ hội để thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt, trong bối cảnh vừa có những thay đổi trong thượng tầng lãnh đạo ở Hà Nội?

    Trong bài viết đăng trên trang mạng The Diplomat ngày 29/08/2024, nhà báo chuyên về châu Á David Hutt cho biết ông nghe nói rằng Việt Nam đã muốn chuyến đi của ông Tô Lâm ở Hoa Kỳ là chuyến thăm cấp nhà nước chính thức. Nhưng cuối cùng thì chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm chỉ là chuyến đi "làm việc" theo thông báo của bộ Ngoại Giao Việt Nam ngày 19/09. Theo David Hutt, Hà Nội có thể sẽ không quá nản lòng với một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi như vậy. Bất kỳ cuộc gặp nào giữa ông Tô Lâm với ông Biden hoặc bà Harris đều phần lớn mang tính biểu tượng, "điều quan trọng là họ gặp nhau".

    Trên trang mạng Geopolitical Monitor ngày 18/09/2024, nhà nghiên cứu độc lập James Borton nhận định chuyến đi của ông Tô Lâm tại Hoa Kỳ có thể sẽ giúp làm nổi bật ý nghĩa của thỏa thuận về quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện mà hai nước đã đạt được vào năm ngoái.

    Ông Borton nhắc lại tổng thống Joe Biden đã từng ca ngợi mối quan hệ ngày càng phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và cũng đã gởi lời chúc mừng tới chủ tịch nước Tô Lâm khi ông được bầu làm tổng bí thư, bày tỏ “sự lạc quan về chương mới trong sự lãnh đạo của Việt Nam”. Theo tổng thống Biden, chương mới đó là một cơ hội rất tốt để hai nước tăng cường quan hệ chiến lược và hợp tác trong những vấn đề thiết yếu như tăng trưởng kinh tế, an ninh khu vực, thương mại và chống biến đổi khí hậu.

    Trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu James Borton còn lưu ý phó tổng thống Kamala Harris, ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, cũng đã nhanh chóng thừa nhận vai trò quan trọng của Việt Nam trong khu vực với tư cách là đối tác chiến lược của Hoa Kỳ. Mặc dù có sự khác biệt về hệ thống chính trị và hệ tư tưởng, Hoa Kỳ đã cố xây dựng mối quan hệ dựa trên thiện chí và lòng tin hiện có giữa Hà Nội và Washington.

    Tuy nhiên, theo ông Borton, nhân quyền vẫn là một chủ đề nhạy cảm trong quan hệ Mỹ-Việt Nam. Hoa Kỳ thường nêu ra các vấn đề về tự do ngôn luận, quyền lao động và bất đồng chính kiến, trong khi Việt Nam coi đây là những vấn đề nội bộ. Các vấn đề chính trị và nhân quyền vẫn là những điểm bế tắc có thể ảnh hưởng đến bang giao lâu dài.

    Trước chuyến đi Hoa Kỳ của thăm của ông Tô Lâm, chính phủ Việt Nam đã trả tự do trước thời hạn cho một số nhà hoạt động hàng đầu, đó là ông Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động nhân quyền bị kết án tù 16 năm vào năm 2010 về tội " Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền" và bà Hoàng Thị Minh Hồng, nhà hoạt động môi trường đang thọ án 3 năm tù về tội "gian lận thuế" sau khi bị kết án vào năm ngoái. Hành động này có thể báo hiệu những nhượng bộ tiềm tàng của Hà Nội đối với mối quan ngại của Washignton về các vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.

    Ngoài ra còn phải tính đến "yếu tố Trung Quốc". Trước khi đến Hoa Kỳ, ông Tô Lâm đã chọn Trung Quốc để mở chuyến công du ngoại quốc đầu tiên với tư cách tổng bí thư đảng. Đây là chuyện bình thường theo truyền thống ngoại giao của Việt Nam với láng giềng Cộng sản phương bắc. Nhưng trong khi quan hệ Việt-Trung có vẽ rất hữu hảo, thì quan hệ Việt – Mỹ dường như đang gặp vấn đề, nhất là qua việc Washington đã từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Trả lời RFI qua điện thoại ngày 05/09/2024, tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ, nhận định:

    "Quan hệ Việt Nam với Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ sẽ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc. Do vậy, việc ông Tô Lâm đi thăm Trung Quốc trước khi đi thăm Mỹ là một bước đi cần thiết để tạo tiền đề cho chuyến thăm Mỹ sắp tới, chứ hoàn toàn không thể hiện Việt Nam ngả theo bên này hay bên kia.

    Rõ ràng là việc Washington từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường là một bước lùi rất lớn trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, nhất là khi Việt Nam đặt việc Mỹ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường là ưu tiên trong quan hệ với Mỹ. Cần phải nói rõ: Việt Nam không được công nhận không phải là do Việt Nam không có nền kinh thế thị trường thực sự, mà là do Mỹ vẫn còn nhiều nghi kỵ đối với chính quyền Cộng sản ở Việt Nam.

    Trong Chiến tranh lạnh, Mỹ sẵn sàng công nhận kinh tế thị trường với các nước đồng minh châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Đài Loan, mặc dù các nước này lúc bấy giờ có nền kinh tế phi thị trường và không có công đoàn độc lập như Mỹ yêu cầu. Mỹ đã cấp quy chế kinh tế thị trường để bảo đảm là các nước này phát triển thần kỳ, nhanh chóng, dưới sự bảo hộ của Mỹ và từ đó có thể giúp Mỹ chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.

    Tuy nhiên,Việt Nam hiện tại không nhận được ưu ái đó, do chưa phải là đồng minh của Mỹ, cũng như tiếng nói chống Cộng sản của đại bộ phận cộng đồng người Mỹ gốc Việt vẫn còn rất lớn. Yếu tố ý thức hệ này sẽ là vật cản lớn, song song với các sức ép từ phía Trung Quốc buộc Việt Nam giữ vị trí trung lập trong quan hệ Việt-Mỹ."

    Khi tỏ ra quá thân thiện với ông Tập Cận Bình nói riêng và với Bắc Kinh nói chung, thể hiện qua chuyến đi Trung Quốc vừa qua của ông Tô Lâm, liệu Hà Nội có sẽ khiến chính quyền Biden nghi ngờ về thực tâm của Việt Nam muốn phát triển hơn nữa quan hệ với Hoa Kỳ? Ngược lại, Hà Nội đã thật sự có sự tin cậy vào Washington, hay vẫn còn ngờ vực về ý đồ thật sự của Mỹ? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang cố giải đáp những câu hỏi đó:

    "Yếu tố ý thức hệ là một trong những nguyên nhân chính đằng sau việc Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, và như tôi đã nói thì quan hệ Việt - Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc.

    Nếu như so sánh yếu tố ý thức hệ trong quan hệ Việt-Trung trong chuyến thăm vừa qua của ông Tô Lâm với quan hệ Việt- Mỹ, có thể thấy là Việt Nam và Trung Quốc đều đạt được đồng thuận về việc phải duy trì ổn định chính trị ở mỗi nước. Khác với Mỹ, Trung Quốc không có nhu cầu hay lợi ích nào trong việc ủng hộ cách mạng màu hay lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam, do nếu Việt Nam gặp bất ổn chính trị thì Trung Quốc cũng sẽ bị vạ lây, do là láng giềng với nhau. Trung Quốc vẫn mong muốn Việt Nam phát triển ổn định và trung lập.

    Trái lại thì Mỹ mặc dù trấn an Việt Nam rằng họ tôn trọng chính quyền Cộng sản Việt Nam, tuy nhiên việc Mỹ vẫn ủng hộ các tổ chức đối lập với nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục khiến Hà Nội nghi ngờ mục tiêu thật sự của Mỹ. Khác với Trung Quốc, Mỹ không phải chịu ảnh hưởng trực tiếp nếu cách mạng lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam nổ ra, do Mỹ ở rất xa.

    Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường sẽ càng xác nhận với phía Việt Nam là Mỹ vẫn chưa đủ thiện chí để nâng cấp quan hệ hai nước thêm sâu rộng hơn, vì thật ra, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ hiện nay vẫn chưa có thực chất. Ông Tô Lâm thăm Mỹ với vai trò tổng bí thư sẽ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam tăng uy tín với chính giới Mỹ. Tuy vây, việc tăng uy tín đó có khiến Mỹ thôi ủng hộ các tổ chức chống nhà nước Việt Nam hay không thì chúng ta chưa thể biết rõ."

    Tuy vậy, theo ghi nhận của nhà nghiên cứu James Borton, chuyến thăm gần đây của bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang tại Washington ngày 09/09/2024 có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ đối tác an ninh đang phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chuyến thăm nhằm mục đích tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai quốc gia, tập trung vào các lĩnh vực như an ninh hàng hải, hiện đại hóa quốc phòng và hoạt động gìn giữ hòa bình. Chuyến thăm cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì ổn định khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, nơi cả hai nước cùng chia sẻ mối quan tâm về tự do hàng hải và luật pháp quốc tế.

    Nhưng với việc hai nước nay đã nâng quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện, liệu Việt Nam có thể dựa vào Mỹ nhiều hơn để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang đánh giá về khả năng đó:

    "Nếu chúng ta nhìn cách Mỹ ủng hộ đồng minh Philippines ở Biển Đông thì sẽ thấy là Mỹ họ cũng ngại bị kéo vào tranh chấp lãnh thổ giữa đồng minh và Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc bắt nạt Philippines từ đầu năm đến nay rất nhiều, nhưng Mỹ đã không có hành động nào cụ thể để bảo vệ đồng minh. Việt Nam nên nhìn qua Philippines để hiểu là sẽ không dễ mà Mỹ can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ hay lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc.

    Trái lại, việc Việt Nam không phải đồng minh với Mỹ lại có lợi cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyển trên biển, khi Trung Quốc im lặng và không bắt nạt Việt Nam, bất chấp Việt Nam đã cải tạo và bồi đắp đảo diện rộng lớn hơn Philippines rất nhiều. Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy là chỉ cần Việt Nam không liên minh với Mỹ thì họ có thể nhân nhượng trên biển, để Việt Nam cũng được có lợi.

    Chưa kể trong tương lai sắp tới, khi cán cân sức mạnh quân sự trên Biển Đông ngày càng nghiêng về Trung Quốc, Mỹ sẽ càng ngại và càng khó mà hỗ trợ đồng minh và đối tác trong khu vực. Chỉ cần nhìn qua Philippines, Việt Nam nên thấy là quan hệ đồng minh với Mỹ sẽ không giải quyết được cả các vấn đề an ninh nổi cộm hiện nay."

    Trong bài viết trên trang Geopolitical Monitor, nhà nghiên cứu James Borton nhấn mạnh kết quả cuộc bầu cử tổng thống tháng 11/2024 sẽ có tác động lớn đến quan hệ quốc tế của Mỹ, ảnh hưởng đến chính sách thuế quan và các hiệp định thương mại. Nếu phó tổng thống Harris đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, quan hệ Mỹ-Việt chắc là sẽ không có thay đổi đáng kể. Trong khi đó, dưới thời cựu tổng thống Donald Trump, Washington đã rút ra khỏi hiệp định tự do mậu dịch Đối tác xuyên Thái Bình Dương và thi hành một chính sách thiên về chống toàn cầu hóa và chống tự do mậu dịch. Nếu Donald Trump trở lại Nhà Trắng, quan hệ Mỹ - Việt có sẽ thay đổi nhiều? Liệu chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam, giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc đối địch, sẽ còn tác dụng đối với chính quyền Trump 2 hay không? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang nhận định:

    "Hiện hãy còn quá sớm để đánh giá được chính sách đối ngoại của chính quyền Donald Trump nhiệm kỳ 2 đối với Việt Nam. Nhưng có một điểm khá là bất ngờ đối với nhiều học giả, đó là nếu nhìn vào chính sách ngoại giao của tổng thống Trump nghiệm kỳ thứ nhất, thì ông cũng không đi ngược lại những truyền thống ngoại giao của Mỹ đến mức trầm trọng như nhiều người dự đoán. Trong giai đoạn 2017-2021, chính quyền tổng thống Trump vẫn rất sẵn lòng tôn trọng chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam và cũng rất sẵn sàng tăng cường hợp tác quốc phòng với giữa hai nước. vẫn được chính quyền Trump hợp tác và ủng hộ . Do vậy, theo tôi, chính sách ngoại giao « cây tre » của Việt Nam vẫn sẽ hiệu quả đối với chính quyền Trump 2.

    Tuy vậy, nếu quan hệ Mỹ-Trung trở nên trầm trọng hơn dưới nhiệm kỳ 2 của tổng thống Trump, rõ ràng là dư địa để Việt Nam có thể sử dụng ngoại giao "cây tre" nhằm cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc sẽ ngày càng hẹp lại."

  • Mỹ sẽ tặng Việt Nam tàu tuần duyên thứ ba từ nay đến cuối năm 2024. Washington được cho là đang đàm phán bán máy bay vận tải C-130J cho Hà Nội. Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Năm thăm Mỹ đúng kỉ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ song phương lên mức cao nhất - Đối tác chiến lược toàn diện. “Sự gia tăng hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong suốt năm qua” đã được bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin nhấn mạnh khi tiếp đồng nhiệm Phan Văn Giang ngày 09/09.

    Tất cả những sự kiện này đánh dấu “giai đoạn mới trong hợp tác hữu nghị” giữa hai nước, cho đến nay “vẫn suôn sẻ và đi theo hướng mà cả hai nước đều mong muốn”. Để hiểu hơn về những chuyển biến mới trong quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt, đặc biệt là mức độ tin cậy nhau, RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.

    RFI : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam vừa kết thúc chuyến thăm Hoa Kỳ. Có thể hiểu đây là một dấu hiệu mới cho việc thắt chặt quan hệ quốc phòng và an ninh song phương ?

    Nguyễn Thế Phương : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Mỹ đợt này hơi đặc biệt tại vì chuyến thăm này khá dài, tầm 4-5 ngày, cho nên lịch trình sẽ dầy và tập trung nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở thời điểm hiện tại, chưa rõ cụ thể chương trình nghị sự của bộ trưởng Giang nhưng chuyến thăm này đánh dấu bước đi tiếp theo cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, bởi vì tháng 9 này kỉ niệm đúng một năm hai nước nâng cấp quan hệ.

    Đọc thêm : Nâng quan hệ Mỹ-Việt lên Đối tác chiến lược: Lợi ích và trở ngại

    Ở đây cần nhấn mạnh đến một số điểm. Thứ nhất, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ ở thời điểm hiện tại thường vẫn được nhấn mạnh đến quan hệ kinh tế và thương mại, còn quan hệ an ninh và quốc phòng thường được đặt bên dưới. Chuyến thăm Mỹ lần này của bộ trưởng Giang phần nào đó sẽ giúp cho Việt Nam hiểu được Mỹ sẽ muốn gì trong mối quan hệ an ninh quốc phòng giữa hai bên trong tương lai. Và cũng để cho phía Mỹ hiểu rõ hơn là Việt Nam thực sự muốn gì ở Mỹ, đặc biệt trong vấn đề giúp Việt Nam cải thiện một số năng lực, nhất là năng lực hàng hải, hoặc những chuyển động quốc phòng sâu sắc hơn trong tương lai cho xứng tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Đây là điểm mấu chốt trong chuyến thăm của bộ trưởng Giang.

    Ngoài ra, có thể đây là chuyến thăm mở đường cho chuyến thăm của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sắp tới. Đây cũng là chuyến thăm để Việt Nam dò chính sách của Mỹ, đặc biệt trong bối cảnh chỉ còn hai tháng nữa là bầu cử tổng thống.

    RFI : Năm 2023 từng có thông tin Việt Nam và Mỹ bàn khả năng mua sắm chiến đấu cơ F-16 nhưng đàm phán bị dừng lại. Hiện tại có thông tin Mỹ đang thảo luận với Việt Nam về việc bán máy bay vận tải quân sự Lockheed Martin C-130J Hercules cho Hà Nội. Tại sao lại có sự thay đổi này ? Liệu việc mua máy bay, dù là máy bay vận tải, sẽ là một bước ngoặt cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ?

    Nguyễn Thế Phương : Thông tin Việt Nam đàm phán với Mỹ về việc mua các loại vũ khí, khí tài của Mỹ, đặc biệt là F-16, đã xuất hiện từ cách đây 2, 3 năm chứ không phải là một vấn đề mới. Nhìn chung, nếu như Việt Nam mua vũ khí, khí tài của Mỹ thì đây cũng sẽ là một bước ngoặt. Đó sẽ là một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai bên được nâng lên một tầm mức mới, bởi vì để Việt Nam mua vũ khí của Mỹ thì mức độ lòng tin chiến lược trong an ninh quốc phòng giữa hai bên, đặc biệt là từ phía Việt Nam đối với Mỹ, đã được nâng lên một tầm mức nào đó rồi.

    Việt Nam cũng đã chuẩn bị từ trước cho những quyết định mua sắm đó. Thứ nhất, Việt Nam gửi một số sĩ quan không quân, những đội hậu cần qua Mỹ để huấn luyện và học tập từ cách đây 2, 3 năm. Thứ hai, Việt Nam vừa mới khai trương một sân bay ở Phan Thiết. Người ta cho rằng sân bay này được dành cho việc triển khai một số loại máy bay huấn luyện sẽ mua của Mỹ trong tương lai. Có thể thấy Việt Nam đã chuẩn bị hết về nhân lực, cơ sở hạ tầng cho vấn đề mua sắm trang thiết bị vũ khí mà ở đây là các loại máy bay Mỹ.

    Đọc thêm : Hoa Kỳ và Việt Nam thảo luận về việc mua bán máy bay vận tải quân sự C-130

    Thông tin Việt Nam mua máy bay F-16 của Mỹ bị dừng lại cũng không phải là điều quá bất ngờ: Thứ nhất, F-16 là một loại vũ khí mang tính tấn công mà ở thời điểm hiện tại, nếu Việt Nam mua của Mỹ thì sẽ rất nhạy cảm, đặc biệt là đặt trong mối quan hệ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố khác, mang tính kỹ thuật. Liệu hai bên có sẽ trao đổi vấn đề mang tính kỹ thuật về vũ khí, về bảo dưỡng, bảo trì không ? Đây cũng là điểm “nhạy cảm”. Việc Mỹ có cho phép mua vũ khí đi kèm hay không cũng là một chuyện cần bàn thảo sâu hơn trong tương lai. Hiện tại, những vấn đề đó dường như vẫn là những khúc mắc mà hai bên chưa giải quyết được.

    Trong khi đó C-130 chỉ là một loại máy bay vận tải phi tác chiến. Cho nên việc Việt Nam có khả năng mua C-130 cũng có thể được giải thích theo hướng là sẽ giúp Việt Nam cải thiện năng lực phòng thủ, năng lực không vận, vốn là năng lực mà Việt Nam vẫn còn yếu. C-130 mang tính phòng thủ, không mang tính tấn công, bớt tính nhạy cảm và một phần nào đó cũng giúp cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong bối cảnh thâm hụt thương mại hiện nay nghiêng về Việt Nam quá lớn. Cho nên, mua sắm thêm vũ khí cũng là cách để Việt Nam gửi thông điệp rằng “chúng tôi muốn mở rộng hơn nữa hợp tác, đặc biệt là về thương mại”. Và trao đổi thương mại quốc phòng là một điểm mà Việt Nam đã và đang cân nhắc.

    RFI : Việc Nga, nước cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, bị cấm vận và phải dồn toàn bộ nguồn lực quốc phòng cho chiến tranh ở Ukraina buộc Hà Nội phải tăng tốc đa dạng hóa nguồn cung, trong số này có vũ khí hệ phương Tây. Tuy nhiên, những nước này có cơ chế kiểm soát chặt chẽ vũ khí được bán. Vấn đề này sẽ tác động đến quá trình hợp tác với Việt Nam như thế nào ? Yếu tố “hoa hồng”, vẫn được các chuyên gia, nhà quan sát về quân sự Việt Nam nêu lên, có phải là một trở ngại khác ?

    Nguyễn Thế Phương : Có hai yếu tố gây trở ngại chính. Thứ nhất là yếu tố mang tính hệ thống vì toàn bộ chu trình ra quyết định mua vũ khí nào và quy trình huấn luyện, bảo dưỡng bảo trì thì từ trước đến này, hệ thống, cấu trúc của Việt Nam luôn hướng về phía Nga. Cho nên hiện giờ, muốn đổi sang một hệ phương Tây khác thì toàn bộ quy trình đó phải được điều chỉnh và thay đổi. Và quá trình này tốn rất nhiều thời gian.

    Thứ hai là vấn đề mang tính chính trị bởi vì tư duy quốc phòng, an ninh của Việt Nam hiện tại vẫn có một yếu tố nghi ngại phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng, cũng như các đồng minh của Mỹ. Đây là điểm có khả năng làm chậm lại quá trình tương tác giữa Việt Nam và các quốc gia phương Tây, đặc biệt là liên quan đến mua sắm vũ khí quốc phòng.

    Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?

    Điểm thứ ba, rất cốt lõi, liên quan đến tài chính. Nguồn lực của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tài chính trong quá trình hiện đại hóa, rõ ràng là không lớn cho nên cũng phải “liệu cơm gắp mắm”. Tất cả những yếu tố đó, khi Việt Nam muốn xác định mua sắm, đều phải đặt lên bàn cân để xem mua của ai, được lợi gì và bất lợi gì, đặc biệt là với Mỹ. Như chị đề cập tới quy trình và đặc trưng của quy trình mua sắm vũ khí, khí tài, thì “văn hóa” giữa hai bên Mỹ-Việt Nam và Việt Nam với phương Tây là khác nhau. Thực ra, sự khác nhau này là có thể điều chỉnh được.

    Nhưng như tôi đã đề cập, quá trình điều chỉnh văn hóa mua sắm và chính sách như này cần phải có nhiều thời gian và dựa trên niềm tin chính trị giữa hai bên, nhu cầu của Việt Nam và chính sách, cũng như chiến lược quốc phòng của Việt Nam hiện tại, chứ không hẳn là vũ khí phương Tây là tốt và cũng không hẳn là ở thời điểm hiện tại, Nga đang gặp khó khăn và Việt Nam không mua của Nga.

    RFI : Phát biểu tại một sự kiện của Canergie, đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius từ năm 2014-2017 cho rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam “thực tế”, “có rất nhiều điều có thể thực hiện một cách thực dụng giúp tăng cường quan hệ đối tác” Việt-Mỹ, kể cả trong lĩnh vực an ninh, dù không cần liên minh hay căn cứ. Hai nước sẽ tính đến những hướng phát triển nào ? Liệu Washington cần tiếp tục kiên trì vì Hà Nội cần thời gian nếu nhìn vào sự cân bằng với Trung Quốc ?

    Nguyễn Thế Phương : Trong chính sách đối ngoại và chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam dù sao cũng đóng một vai trò tương đối quan trọng trong tầm nhìn của Mỹ ở khu vực. Cho nên Mỹ sẽ cần phải có một mức độ kiên trì nhất định khi tương tác với các lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là các lãnh đạo bên quân đội.

    Đọc thêm : Thêm Việt Nam, Mỹ mở rộng mạng lưới đối trọng với Trung Quốc ở Biển Đông

    Đối với Việt Nam, niềm tin chiến lược hiện tại giữa hai bên đã được cải thiện, nhưng không đi quá nhanh. Nhìn vào Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam, vấn đề mang tính diễn biến hòa bình, những vấn đề mang tính lật đổ hoặc đảm bảo nguyên chế độ vẫn là vấn đề an ninh hàng đầu. Khi nói đến những vấn đề đó, phương Tây và Mỹ là những “đối tượng rất lớn”, theo đúng cách dùng của ngôn ngữ chiến lược Việt Nam. Cho nên, để có mối quan hệ song phương bền vững và lâu dài với Việt Nam, Mỹ cần có sự kiên trì nhất định khi làm việc với Việt Nam, đặc biệt là trong những vấn đề mang tính nhạy cảm như an ninh và quốc phòng.

    Ngoài ra, theo lời đại sứ Ted Osius, về vấn đề liên quan đến “thực tế”, các nhà lãnh đạo Việt Nam ở thời điểm hiện tại đã “thực tế” và “thực dụng” hơn rất nhiều so với các đây 20-30 năm, đặc biệt là trong giai đoạn trước và sau khi Liên Xô sụp đổ. Đó là giai đoạn vẫn còn nghi kị rất nhiều. Hiện tại, do sự chuyển dịch tư duy về chiến lược đặt phát triển kinh tế lên hàng đầu, để phát triển kinh tế, các nhà lãnh đạo phải “thực dụng” hơn nhưng không có nghĩa là họ không nghi ngờ, không phòng thủ trước những mối quan hệ với Mỹ và phương Tây. Phòng thủ ở đây không chỉ về mặt khác biệt và quan điểm chính trị, mà còn là sự đề phòng trong mối cân bằng ngoại giao với Trung Quốc. Đó là sự cân bằng giữa các nước lớn.

    Đọc thêm : Việt - Mỹ thắt chặt quan hệ, không để Trung Quốc "lộng hành" ở Biển Đông

    Cho nên, nói theo đại sứ Ted Osius cũng đúng, nhưng phải đặt trong toàn bộ bối cảnh tư duy chiến lược của Việt Nam hiện tại : Có sự cân bằng giữa các nước láng giềng, có yếu tố về mặt chính trị, một chút ý thức hệ và cũng có yếu tố thực dụng trong việc tăng cường quan hệ với Mỹ thì sẽ mở rộng hơn nữa khả năng của Việt Nam về mặt thương mại, tài chính và công nghệ. Đó là những lĩnh vực Việt Nam đang muốn đầu tư cho việc duy trì khả năng phát triển kinh tế trong tương lai.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.

  • Ông Tô Lâm, tổng bí thư, chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, là người triển khai chiến dịch "đốt lò" của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch dữ dội dường như khiến nước láng giềng Trung Quốc lo ngại về những "biến động chính trị chưa từng có ở Việt Nam". Việc một quan chức thuộc bộ Công An, không giàu kinh nghiệm đối ngoại, nắm giữ hai chức vụ cao nhất trên thượng tầng lãnh đạo cũng khiến Bắc Kinh không khỏi bồn chồn về đường lối "ngoại giao cây tre".

    Tuy nhiên, khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc, trấn an rằng Hà Nội "luôn coi trọng và ưu tiên" quan hệ với Bắc Kinh.

    Chuyến công du cấp nhà nước của ông Tô Lâm còn có ý nghĩa như nào trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước ? Trung Quốc trông đợi gì vào các nhà lãnh đạo Việt Nam ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.

    RFI : Khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thứ đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Liệu đây có phải là tín hiệu trấn an đến Bắc Kinh dù Hà Nội tăng cường mối liên hệ với Washington và nhiều nước đồng minh khác của Mỹ ?

    Laurent Gédéon : Tôi nghĩ đây quả thực là một tín hiệu tích cực gửi đến Bắc Kinh. Theo tôi, có 5 yếu tố cho thấy điều này. Thứ nhất, chuyến thăm cấp Nhà nước của ông Tô Lâm tại Trung Quốc từ ngày 18 đến 20/08/2024 nằm trong khuôn khổ tiếp nối chính sách về Trung Quốc được người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng gây dựng. Ông Trọng đã công du Trung Quốc tháng 10/2022.

    Thứ hai, chuyến thăm này còn có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước tiên, ông Tô Lâm là nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam, từ thời Hồ Chí Minh, đến Trung Quốc với tư cách vừa là chủ tịch nước vừa là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Tiếp theo, lễ đón tiếp long trọng ông Tô Lâm đã cho thấy chính quyền Trung Quốc coi trọng sự kiện này như thế nào (21 phát đại bác được bắn để chào mừng ông Lâm, đích thân ngoại trưởng Vương Nghị đón ông ở sân bay). Cuối cùng, năm 2024-2025 mang đầy ý nghĩa biểu tượng mạnh vì năm 2024 kỷ niệm tròn 100 năm chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Quảng Đông và năm 2025 sẽ đánh dấu 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như kỷ niệm 95 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.

    Thứ ba, phải nhắc đến những phát biểu mạnh mẽ từ cả hai phía nhấn mạnh đến quan hệ mật thiết Việt-Trung. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc đến sự hình thành một “cộng đồng chung vận mệnh có tầm quan trọng chiến lược giữa Trung Quốc và việt Nam” và nói thêm rằng Bắc Kinh “luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng”. Còn ông Tô Lâm trấn an người đồng cấp Trung Quốc rằng đảng và đất nước Việt Nam “luôn coi sự phát triển mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên tuyệt đối trong chính sách đối ngoại”.

    Đọc thêm : Tổng bí thư Việt Nam Tô Lâm đi Trung Quốc, chuyến công du nước ngoài đầu tiên từ khi nhậm chức

    Thứ tư là có mối quan hệ chặt chẽ về ý thức hệ giữa hai chế độ. Điểm này được xác nhận trong tuyên bố chung ngày 20/08 nhấn mạnh rằng “hai nước cam kết tăng cường trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm về mặt chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống “cách mạng màu”, cùng bảo vệ an ninh chính trị và an toàn cho chế độ (…)”. Cũng như “hai bên đề cao trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền dựa trên công bằng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối mạnh mẽ “chính trị hóa”, “công cụ hóa” và tiêu chuẩn kép trong vấn đề nhân quyền, đồng thời kiên quyết phản đối việc lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”.

    Thứ năm là có sự hòa hoãn tương đối ở cấp độ quân sự. Tuyên bố chung nhấn mạnh : “Hai bên khẳng định hợp tác quốc phòng - an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt-Trung ; nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh ; tăng cường giao lưu các cấp giữa quân đội hai nước ; làm sâu sắc giao lưu biên phòng, hải quân, cảnh sát biển”.

    RFI : Nhìn rộng hơn, những yếu tố tích cực đó diễn ra trong bối cảnh như thế nào ?

    Laurent Gédéon : Khía cạnh tích cực đó diễn ra trong bối cảnh chung, được đánh dấu bởi ba hạn chế quan trọng đối với Việt Nam.

    Hạn chế thứ nhất là kinh tế. Nổi bật trong tình hình hiện nay là sự phụ thuộc ngày càng lớn từ một thập niên qua của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến từ Trung Quốc bởi vì các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển dịch sản xuất để tránh thuế quan của Mỹ. Khối lượng nhập khẩu có nguồn gốc Trung Quốc đã tăng từ gần 30 tỉ đô la vào năm 2013 lên thành 110 tỉ đô la vào năm 2023 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 15 tỉ lên thành 60 tỉ trong cùng thời điểm.

    Yếu tố thứ hai là những bất trắc liên quan đến Hoa Kỳ. Trước những bất trắc về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới, Hà Nội phải cân nhắc cách hợp tác về kinh tế và quân sự với Donald Trump hoặc Kamala Harris năm 2025. Thêm vào đó là việc xích lại gần với Mỹ luôn được đặt trong điều kiện cơ bản của Việt Nam là bảo toàn chế độ cộng sản. Đây là một điểm khiến Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh. Tuy nhiên một bộ phận trong giới chính trị Mỹ lại rất nhạy cảm về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, các quyền tự do cá nhân, cho nên tỏ ra nghi ngờ về chính sách tăng cường hợp tác an ninh đang được triển khai với Việt Nam. Sự ngờ vực tiềm ẩn này cản trở sự xích lại gần nhau giữa hai nước.

    Yếu tố thứ ba là sự bó buộc về địa lý. Có chung 1.400 km đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Việt Nam phải tính đến sự gần gũi về mặt địa lý này và điều này cũng tiềm ẩn việc Trung Quốc luôn có khả năng gây áp lực đối với Việt Nam.

    Đọc thêm : Tô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bảnRFI : Ngoài ra, liệu chuyến thăm cũng là cách để trấn an Bắc Kinh về sự ổn định chính trị sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam có lãnh đạo mới và hàng loạt xáo trộn trong chính phủ do chiến dịch chống tham nhũng ?

    Laurent Gédéon : Đây là một giả thuyết không thể loại trừ. Bắc Kinh bận tâm rõ ràng đến việc Việt Nam và Mỹ sưởi ấm mối quan hệ, cũng như cuộc chống tham được tiến hành dưới thời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch này đã khiến 7 thành viên trên tổng số 18 ủy viên Bộ Chính Trị năm 2021 bị khai trừ và hai người tiền nhiệm của chủ tịch nước Tô Lâm bị cách chức, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng.

    Chiến dịch chống tham nhũng này cũng gây ra nhiều quan ngại về khả năng một cuộc khủng hoảng kế thừa quyền lực, cũng như gia tăng bất ổn thường trực. Trung Quốc dè chừng một nước Việt Nam bất ổn ngay sát biên giới sẽ có thể trở thành cửa ngõ cho các thế lực có khả năng thù nghịch với Bắc Kinh.

    Tình hình hiện này dường như đã được ổn định. Hiện giờ Bộ Chính Trị có 16 thành viên, trong đó có 5 người đến từ bộ Công An và 3 người thuộc Quân Đội. Sự phân chia này cho thấy rõ là trọng tâm giờ đây được tập trung vào việc kiểm soát xã hội và an ninh. Thông qua đó cũng có thể thấy một thông điệp nhằm trấn an các đối tác về sự ổn định chính trị trong tương lai của đất nước.

    Tuy nhiên, dù chiến dịch chống tham nhũng có vẻ đã đạt được mục đích là củng cố quyền lực của ông Tô Lâm nhưng vẫn phải tính đến khả năng các bên đối lập trong nội bộ đảng hợp lực lại để phản đối việc xác nhận ông Lâm làm người kế nhiệm ông Trọng trong đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 14 sẽ diễn ra vào năm 2026. Do đó, giai đoạn tiếp theo này chắc chắn sẽ được Bắc Kinh đặc biệt chú ý.

    Đọc thêm : Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre”

    RFI : Trung Quốc trông đợi những gì vào các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam ?

    Laurent Gédéon : Tôi nghĩ trước tiên phải nói một chút về tổng quan tình hình địa-chính trị chung của Trung Quốc bối cảnh chính trị tế nhị trên thế giới hiện nay. Bắc Kinh chọn xích lại gần với một loạt quốc gia, kể cả Nga. Mục đích là để lật lại trật tự thế giới có từ thời Thế Chiến II mà họ coi là do phương Tây chiếm lĩnh. Hơn nữa, ý định xem xét lại trật tự vốn có đó đã được Bắc Kinh tái khẳng định nhiều lần, như trong chuyến thăm chính thức Trunng Quốc của tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 05/2024.

    Lập trường này của Trung Quốc lại vấp phải sức ép ngày càng lớn từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh ở châu Á, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines. Thêm vào đó phải kể đến tranh luận hiện tại về việc mở rộng khối NATO sang Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thay đổi về tầm nhìn chiến lược của Mỹ dường như ngày càng coi Trung Quốc và Nga là một khối đồng nhất và cần phải có cách đáp trả toàn diện.

    Trên thực địa, sức ép của Mỹ ngày càng gia tăng từ nhiều tháng qua, thông qua các cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn Quốc-Nhật Bản, một chính sách mang tính chủ động hơn của Philippines hoặc sự ủng hộ ngày càng rõ ràng của Washington đối với Đài Loan. Trong bối cảnh đó, điều quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là không muốn thấy bùng thêm một điểm căng thẳng mới có thể tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp vào khu vực.

    Chính vì thế Bắc Kinh coi trọng việc củng cố quan hệ chính trị và chiến lược với Hà Nội, phát triển mối liên hệ hài hòa với nước láng giềng. Trông đợi này của Trung Quốc dường như gặp được phản hồi tích cực từ Hà Nội thông qua hàng loạt cử chỉ thiện chí. Đối với Trung Quốc, việc Việt Nam duy trì chính sách cân bằng ngoại giao giữa các cường quốc chắc chắn là giải pháp tốt nhất. Và đây là việc mà Việt Nam tiến hành vì là nước duy nhất đón nguyên thủ của cả ba cường quốc quân sự Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga chỉ trong một năm.

    Đọc thêm : Biển Đông : Việt Nam - Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp thông qua “hiệp thương hữu nghị”

    Ngoài ra, chính sách "Bốn Không" được nêu rõ trong Sách trắng Quốc phòng 2019 (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) đảm bảo chắc chắn với Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ không phải là bên tham gia vào một cuộc xung đột, ví dụ có thể là giữa Trung Quốc và Philippines hoặc thậm chí là giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay Trung Quốc và Mỹ.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.

  • Với nguồn tài nguyên biển phong phú cùng điều kiện nắng và gió thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm sản xuất hydrogen xanh hàng đầu ở châu Á, qua đó giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhiên liệu hóa thạch. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần đến sự trợ giúp của các nước phát triển, trong đó có Pháp.

    Hydrogen xanh là một loại hydrogen được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời và gió. Khác với hydro "xám", quá trình sản xuất hydro xanh sử dụng điện năng để điện phân nước, tách nước thành hydro xanh và oxygen, không phát thải CO2 và các chất ô nhiễm khác. Các lợi ích về môi trường và tính linh hoạt của nó trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, công nghiệp và sản xuất điện khiến hydro xanh ngày càng trở nên quan trọng khi các quốc gia nỗ lực đạt được mục tiêu trung hòa cacbon, như mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết cho năm 2050

    Trả lời RFI Việt ngữ từ Jakarta ngày 26/08/2024, ông Mathieu Geze, giám đốc đặc trách khu vực châu Á của công ty Hydrogène de France ( HDF Energy ), một trong những công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen, nhận định về tiềm năng phát triển hydrogen xanh của Việt Nam:

    “Hydrogen có thể được sản xuất từ những nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời hoặc gió. Việt Nam có những tiềm năng rất lớn về hai loại năng lượng này, nên cũng có tiềm năng lớn về hydrogen xanh, mà công ty HDF Energy của chúng tôi cố gắng giúp khai thác.

    Nói chung, tiềm năng về hydrogen là rất lớn trong lĩnh vực hóa dầu, cụ thể là tập đoàn Petrovietnam với một số nhà máy lọc dầu của công ty này, hay các nhà máy dùng hydrogen để sản xuất một số sản phẩm như phân bón.

    Hiện nay, hydrogen xám chủ yếu được sản xuất từ khí đốt. Nhưng trong tương lai, nhờ tiềm năng về năng lượng tái tạo, ta có thể sản xuất hydrogen xanh để phi cacbon hóa những ngành như ngành hóa dầu, hay ngành giao thông, như xe lửa. Chẳng hạn như Công ty Đường sắt Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng các đầu máy chạy bằng diesel. Hydrogen có thể đóng một vai trò trong việc kéo dài tuổi thọ của một số đầu máy, đồng thời góp phần phi cacbon hóa ngành này.

    Về phần công ty HDF Energy, trong giai đoạn đầu, chúng tôi cố gắng giúp phi cacbon hóa ngành điện. Việt Nam có những vùng xa xôi hẻo lánh, chẳng hạn như các đảo thuộc tỉnh Kiên Giang, nơi mà hydrogen có thể được dùng để tích trữ một cách ổn định các nguồn năng lượng tái tạo. Cụ thể, nguồn điện từ năng lượng Mặt trời hay năng lượng gió có thể không ổn định, vì nắng lúc có lúc không, gió thì lúc mạnh lúc yếu. Hydrogen có thể được sử dụng để tích trữ lượng điện đó và cung cấp cho mạng lưới điện những khi thiếu nắng và gió.”

    Với những tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và năng lượng Mặt Trời, Việt Nam đã phê duyệt chiến lược quốc gia phát triển hydrogen xanh đến năm 2050. Mục tiêu cụ thể là sản xuất từ 100.000 đến 500.000 tấn hydrogen xanh từ đây đến năm 2030, để sau đó đạt được sản lượng từ 10 đến 20 triệu tấn từ đây đến năm 2050.

    Chính phủ Việt Nam hiện đang tìm các nhà đầu tư ngoại quốc có thể hỗ trợ tài chính cho việc sản xuất hydrogen xanh qua nhiều nguồn năng lượng khác nhau, không chỉ có năng lượng gió, năng lượng Mặt trời, mà cả than đá, dầu hỏa và khí đốt. Theo dự báo của chính phủ Hà Nội, hydrogen xanh sẽ đáp ứng 10% nhu cầu tiêu thụ năng lượng của Việt Nam từ đây đến năm 2050. Ông Mathieu Geze, giám đốc châu Á của HDF Energy nhận định về mục tiêu này:

    “Tôi nghĩ là có thể đạt được mục tiêu đó, vấn đề chủ yếu chỉ là thời gian. Nhưng do có tiềm năng rất lớn về điện Mặt trời và điện gió, do nhu cầu phải phi cacbon hóa đất nước, do phải đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng cùng với đà phát triển của kinh tế, công nghiệp, hydrogen có thể góp phần đáp ứng nhu cầu đó. Tỷ lệ 10% theo tôi là một mục tiêu khả thi”.

    Pháp là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen xanh tính theo số lượng sáng chế, nghiên cứu, phát triển, sản xuất trang thiết bị và doanh nghiệp ở mọi quy mô. Công ty Pháp HDF Energy đã hợp tác với Việt Nam từ vài năm nay trở lại đây. Mới đây, công ty này đã đưa vào hoạt động một nhà máy sản xuất pin nhiên liệu ( fuel cell ) tại vùng ngoại ô thành phố Bordeaux.

    Giám đốc châu Á của HDF Energy Mathieu Geze nêu bật những khả năng hợp tác giữa Pháp với Việt Nam về hydrogen xanh:

    “Nói chung, nước Pháp có những công ty hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng, như Tập đoàn Điện lực Pháp EDF, nếu tôi không lầm thì đã có mặt ở Việt Nam từ nhiều năm qua, hoặc là những công ty khác cũng có thể có tham vọng đầu tư vào Việt Nam. Như vậy nước Pháp có thể đóng vai trò quan trọng với khả năng đầu tư, kỹ thuật, để hỗ trợ Việt Nam, đặc biệt là về thủy điện hay về điện hạt nhân.

    Riêng công ty HDF sẽ tập trung vào những dự án mà chúng tôi có thể chuyển giao các kỹ năng quan trọng cho phía Việt Nam, khác với những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, hay một số đảo, nơi mà một phần của hệ thống điện phụ thuộc nhiều vào các máy phát điện chạy bằng diesel”.

    Có mặt tại Việt Nam từ năm 2022, HDF Energy đã triển khai nhiều dự án hợp tác với các Bộ Công Thương, Bộ Giao Thông Vận Tải, Tập đoàn Đường sắt và Tập đoàn Điện lực Quốc gia. Công ty cũng có ký kết, làm việc, hoặc trao đổi phát triển các dự án ở nhiều tỉnh thành như Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, là những địa phương có tiềm năng lớn trong phát triển năng lượng tái tạo như điện gió ngoài khơi, điện gió trên đất liền, hay điện Mặt trời.

    Đây cũng chính là những nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất hydrogen "xanh" phục vụ ngành giao thông vận tải. Đặc biệt, HDF Energy đã làm việc với Công ty Đường sắt Việt Nam để nghiên cứu cơ hội chuyển đổi gần 200 động cơ diesel cũ đã vận hành từ cách đây hàng chục năm, chuyển sang sử dụng hydrogen. Về dự án này, ông Mathieu Geze cho biết:

    “Nói chung chúng tôi có tham vọng hỗ trợ ngành đường sắt để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng của ngành này tại Pháp và tại nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi thấy nhiều đầu máy xe lửa còn phụ thuộc vào động cơ diesel, vì cần phải đầu tư rất nhiều cho việc điện hóa các tuyến xe lửa. Một số tuyến có nhu cầu rất hạn chế hoặc rất khó lấy lại vốn khi đầu tư vào. Hydrogen sẽ là một giải pháp đơn giản để phi cacbon hóa các đầu máy đó bằng cách, nói theo tiếng Anh, retrofit chúng, thay thế động cơ diesel bằng động cơ chạy điện. Vì lý do bảo mật, tôi không thể nói chi tiết hơn, nhưng chúng tôi đang nghiên cứu các dữ liệu để xác nhận tiềm năng đó tại một số nơi ở Việt Nam.”

    Đối với ông Mathieu Geze, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện nay đã đủ thuận lợi cho việc phát triển hydrogen xanh:

    “Đây vẫn là những vấn đề rất phức tạp ở tất cả các nước mà các nhà công nghiệp, các nhà đầu tư vẫn trông chờ một sự yểm trợ về mặt chính trị, thể hiện qua một khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các dự án.

    Cá nhân tôi thì nghĩ rằng dù trong khuôn khổ pháp lý như thế nào, các nhà phát triển dự án, các nhà đầu tư, các nhà công nghiệp cũng nên tỏ ra thực dụng. Nếu dự án được xem là đáng giá về mặt kinh tế, về mặt kỹ thuật, tôi có thể chắc chắn là dự án đó sẽ được sự hỗ trợ của chính quyền, dù ở cấp quốc gia, với bộ Công Thương hay ở cấp địa phương với chính quyền các tỉnh.

    Tôi nghĩ là các quy định luật lệ hiện nay ở Việt Nam đủ để chúng tôi có thể đề xuất các ý tưởng, các dự án và thực hiện các ý tưởng, dự án đó. Nếu trong tương lai các nhà lập pháp hỗ trợ mạnh hơn đối với các năng lượng tái tạo thì càng tốt”.

  • Việt Nam có trữ lượng khoảng 22 triệu tấn đất hiếm và chiếm 18% tổng lượng thế giới nhưng trong suốt nhiều năm lại không khai thác, xuất khẩu tương xứng với tiềm năng. Trước nhu cầu ngày càng tăng và chủ trương giảm phụ thuộc vào nguồn cung Trung Quốc của nhiều nước, đất hiếm ở Việt Nam ngày càng được quan tâm.

    Tháng 06/2024, chính phủ tuyên bố « nhất quyết không xuất khẩu đất hiếm thô ». Tuy nhiên, sẽ mất bao lâu để thực hiện được ý định này trong khi các nhà đầu tư vào Việt Nam lại không làm chủ được công nghệ tinh luyện mà trung Quốc nắm giữ ?

    Trên đây là nhận định của phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS, khi trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt, ngày 10/07/2024. Đồng thời, chuyên gia Mottet còn nhấn mạnh đến chiến dịch chống tham nhũng, được coi là yếu tố thứ hai có thể tác động đến lĩnh vực khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Sự kiện mới nhất là ông Nguyễn Linh Ngọc, nguyên thứ trưởng bộ Tài Nguyên Môi Trường bị khởi tố ngày 22/07/2024 liên quan đến Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương, gây thát thoát khoáng sản của Nhà nước với trị giá ước tính trên 600 tỷ đồng.

    RFI : Theo báo cáo năm 2022 của Viện Geological Survey của Mỹ, tổng khối lượng đất hiếm của Việt Nam chiếm khoảng 18% tổng lượng trên thế giới, kể cả đất hiếm nặng và nhẹ. Có thể tìm thấy đất hiếm tại những vùng nào ở Việt Nam ?

    Éric Mottet : Tại Việt Nam, đất hiếm nằm ở nhiều nơi. Trước tiên là ở phía tây bắc, nơi có một trong những mỏ đất hiếm lớn nhất Việt Nam, cho đến giờ vẫn gần như chưa được khai thác. Đất hiếm còn nằm ở vùng cao nguyên miền trung và dọc bờ biển, gần như từ bắc xuống nam. Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đất hiếm vốn rất dồi dào, dễ khai thác. Nhưng sự khác biệt, hoặc nói một cách khác là vấn đề duy nhất nằm ở công nghệ để tinh luyện chúng.

    Như câu hỏi đã nêu, đất hiếm ở Việt Nam chiếm khoảng 18% trữ lượng thế giới. Đó là con số rất lớn, được coi là nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, với giá trị được thẩm định gần 3.000 tỉ đô la Mỹ. Con số này lớn gần gấp 10 lần GDP Việt Nam. Nhưng hiện giờ, những mỏ đất hiếm này hầu hết chưa được khai thác. Việt Nam là một nhà sản xuất đất hiếm nhưng theo tôi, chỉ là một nhà sản xuất vô cùng nhỏ, vì mới chỉ khai thác được khoảng 600 tấn/năm. Năng suất này thấp hơn rất nhiều lần so với Trung Quốc, thậm chí thấp hơn cả Miến Điện, nước khai thác 38.000 tấn hàng năm.

    Dù sao, đất hiếm ở Việt Nam có tiềm năng đáng kể mà rất nhiều nước phương Tây đang nhìn với con mắt ghen tị.

    RFI : Ngay năm 2014, một số giấy phép khai thác đất hiếm đầu tiên đã được cấp nhưng dường như hoạt động khai thác không được tiến triển. Những nguyên nhân, yếu tố nào có thể giải thích cho tình trạng này?

    Éric Mottet : Có nhiều lý do. Chúng ta đừng quên là đất hiếm, nhất là ở tây bắc Việt Nam, đã được hai công ty Nhật Bản khai thác cho đến năm 2015. Nhưng việc Trung Quốc có quá nhiều đất hiếm, khiến giá sụt thê thảm nên việc khai thác ở Việt Nam không đem lại lợi nhuận và buộc các công ty Nhật Bản rút khỏi dự án từ những năm 2014, 2015. Liên quan đến Việt Nam, các nhà đầu tư bị nản lòng vì giá thấp và thế gần như độc quyền của Trung Quốc trên thị trường đất hiếm. Đối với nhiều nhà đầu tư, việc khai thác đất hiếm bị coi là mang lại ít lợi nhuận. Đó là lý do thứ nhất khiến đất hiếm rất ít được khai thác ở Việt Nam.

    Tuy nhiên, từ năm 2023, thủ tướng Việt Nam đã công bố một quyết định thông qua kế hoạch thăm dò, tiếp theo là khai thác đất hiếm ở quy mô lớn. Chính phủ có ý định mời thầu vào cuối năm 2023, đầu năm 2024, nói theo cách khác là để “bán” nhiều lô trong mỏ Đông Pao ở vùng núi tây bắc. Theo lịch trình là tái khởi động vào cuối năm 2024 với dự kiến khai thác 10.000 tấn đất hiếm mỗi năm. Một số doanh nghiệp nước ngoài đã đặt sẵn bản doanh, ví dụ tập đoàn Úc Blackstone, hoặc nhiều hợp tác đang được thảo luận ít nhiều với Hàn Quốc.

    Nhưng mọi chuyện dần bị dừng lại vào tháng 10, 11/2023 bởi vì chiến dịch chống tham nhũng trong các doanh nghiệp Việt Nam đã gây ra nhiều thiệt hại, kể cả trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của ngành công nghiệp mỏ khoáng sản, cũng như trong các công ty đang khai thác đất hiếm. Các vụ bắt giữ đã cản trở phần lớn những dự án của chính phủ, xin nhắc lại ở đây, là nhằm bán đấu giá những khu nhượng quyền khai thác mới cho những công ty Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp Úc và Hàn Quốc. Vì thế tôi cho rằng ngành công nghiệp này hiện giờ có phần bất trắc. Các nhà đầu tư nước ngoài lưỡng lự đầu tư vào khai thác đất hiếm ở Việt Nam.

    Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn giữ kế hoạch chỉ đạo, muốn tiếp tục và muốn khoảng 2 triệu tấn đất hiếm được khai thác vào khoảng năm 2030. Nhưng tôi xin nhắc lại là vì hai lý do chính - chi phí khai thác thấp ở Trung Quốc và chiến dịch chống tham nhũng cùng với những vụ bắt giữ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khai thác, quản lý ngành công nghiệp mỏ và khoáng sản ở Việt Nam - cho nên những dự án được thông báo năm 2023 hiện giờ (năm 2024) đã bị đình chỉ.

    Rất khó để biết được lý do chính xác khiến nhiều cán bộ hoặc lãnh đạo cấp cao của công ty quốc doanh, bán quốc doanh, tư nhân ở Việt Nam bị bắt vì tham nhũng. Tuy nhiên, có một vài thông tin được tiết lộ về một doanh nghiệp và các vụ biển thủ công quỹ của họ.

    Thứ hai, Việt Nam có nhiều quy định hiện hành, khá là chặt chẽ về xuất khẩu khoáng sản thô ra nước ngoài. Và một trong hai doanh nghiệp quản lý đất hiếm dường như đã xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc để tinh chế đất hiếm ở đó. Tại sao doanh nghiệp đó lại làm như vậy ? Đó là vì họ cho rằng chi phí thì cao, còn khả năng tinh chế ở Việt Nam còn quá yếu nên họ phải chuyển hướng sang Trung Quốc và người phụ trách đó đã bị bắt. Cho nên có thể thấy có hai lý do : biển thủ công quỹ và xuất khẩu đất hiếm trái phép ra nước ngoài, nhất là sang Trung Quốc.

    RFI : Chính phủ Việt Nam khẳng định không xuất khẩu đất hiếm dạng thô. Việt Nam sẽ phải cải thiện những gì và cần hỗ trợ như thế nào để đạt được mục tiêu này ?

    Éric Mottet : Quy định hiện hành của Việt Nam về xuất khẩu khoáng sản thô đã được thắt chặt hơn rất nhiều bởi vì Hà Nội đặt mục tiêu triển khai lĩnh vực tinh chế ở trong nước. Nhưng Việt Nam lại phải đối phó với rất nhiều thách thức lớn về năng lực, công nghệ, kỹ thuật tinh chế. Việt Nam muốn hình thành một dây chuyền khép kín từ khai thác đến tinh luyện đất hiếm nhưng vấn đề đầu tiên của Viện Nam hiện giờ là phải phát triển được năng lực tinh chế khoáng sản. Đó lại là cả một quá trình phải làm trong hợp tác với các doanh nghiệp Úc, Hàn Quốc.

    Dù sao cũng có một tin vui, đó là chuyến công du Việt Nam năm 2023 của tổng thống Mỹ Joe Biden. Hà Nội và Washington đã ký một thỏa thuận nhằm tăng cường năng lực của Việt Nam, nhất là về thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khai thác đất hiếm. Nhưng Hoa Kỳ cũng không phải là một nước làm chủ được công nghệ tinh chế đất hiếm, bởi vì phần lớn khối lượng đất hiếm được khai thác ở Mỹ, nhất là ở bang California, cũng lại được chuyển sang Trung Quốc để tinh chế.

    Vấn đề hiện nay đối với Việt Nam là họ muốn phát triển một lĩnh vực với các đối tác phương Tây, như Úc, Mỹ hoặc ở trong khu vực như Hàn Quốc, nhưng những nước này cũng không làm chủ hoàn toàn được công nghệ tinh chế hoặc tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp. Cho nên có thể thấy là Việt Nam phần nào bị bí. Họ muốn phát triển khả năng tinh luyện đất hiếm nhưng lại không dựa vào đúng đối tượng.

    Bắc Kinh hiểu rõ vấn đề của Việt Nam và đánh tiếng với chính phủ Việt Nam rằng quốc gia tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp chỉ có Trung Quốc và nếu Việt Nam muốn phát triển lĩnh vực này thì phải hướng sang Trung Quốc. Nhưng đây là điều mà hiện giờ chính phủ Việt Nam chưa tính đến.

    RFI : Như ông vừa nêu, nhiều công ty nước ngoài đã quan tâm đến việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ vẫn chỉ ở giai đoạn thăm dò, nghiên cứu. Liệu có thể hy vọng là sẽ có nhiều tiến triển trong thời gian tới ? Những yếu tố nào có thể tác động đến những tiến bộ đó ?

    Éric Mottet : Người ta từng nghĩ rằng mọi chuyện sẽ tiến triển trong năm 2023, 2024. Vì những lý do mà tôi đã nêu ở trên, nhất là chiến dịch chống tham nhũng trong các ngành công nghiệp và lĩnh vực khai thác mỏ ở Việt Nam, nên mọi chuyện bị chậm lại.

    Tuy nhiên, có một yếu tố có thể thúc đẩy tình hình, đó là Hoa Kỳ muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển lĩnh vực đất hiếm này. Mỹ đã đề xuất, đã ghi trong khuôn khổ một thỏa thuận là giúp Việt Nam lập bản đồ các nguồn trữ đất hiếm vì thường thì việc này sẽ cho phép thu hút các nhà đầu tư chất lượng vào Việt Nam. Mỹ muốn giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp này cũng là để giúp Mỹ giảm phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc về đất hiếm. Phía Hoa Kỳ thực sự tỏ thiện chí giúp đỡ Việt Nam phát triển ngành này. Đây là điều có thể coi là rất tích cực và tôi nghĩ đó là một yếu tố quan trọng trong tương lai đối với ngành khai thác đất hiếm ở Việt Nam.

    Nhưng tôi cũng xin nhắc nhắc lại là Việt Nam đang dựa vào những đối tác mà hiện giờ chưa làm chủ hoàn toàn công nghệ chế biến đất hiếm. Thêm vào đó còn có một trở ngại khác. Đó là Trung Quốc, nước từng đề xuất giúp đỡ Việt Nam phát triển những công nghệ khác nhau trong các khâu khai thác, chế biến, xử lý và tinh chế đất hiếm, vào tháng 12/2023 đã quyết định ngừng xuất khẩu một phần công nghệ này ra nước ngoài để giữ phần nào độc quyền và vai trò quan trọng về lĩnh vực này.

    Hiện giờ, Việt Nam bị kẹt giữa một bên là các nước phương Tây muốn giúp Việt Nam và muốn đầu tư nhưng lại không hoàn toàn yên tâm về kế hoạch chính sách ở Việt Nam và họ cũng không hẳn làm chủ công nghệ và bên kia là Trung Quốc, nước không còn muốn xuất khẩu công nghệ của họ ra nước ngoài, trong đó có thể có Việt Nam.

    Có thể thấy là trong những năm 2023, 2024 có rất nhiều lạc quan về vấn đề đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ, tôi cho rằng lạc quan đó đã bớt đi phần nào so với chỉ cách đây vài tháng.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS.

  • Theo các cơ quan bảo tồn sinh vật biển, Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều loài san hô đa dạng nhất thế giới. Tuy nhiên, hệ sinh thái rất quan trọng này đang bị suy thoái nghiêm trọng cả về số lượng, chất lượng, do tác động từ các hoạt động của con người ( du lịch, ô nhiễm biển ), cũng như do tác động của biến đổi khí hậu. Tác động của biến đổi khí hậu đáng lo ngại hơn cả là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt các rạn san hô.

    Vùng biển Việt Nam hiện đang tập trung khoảng 340 loài san hô trong tổng số 800 loài của thế giới, phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Rạn san hô biển tập trung với mật độ cao ở vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa, biển Hòn Mun (Khánh Hòa). Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tổng cục Biển đảo Việt Nam, hiện Việt Nam chỉ còn 1% trong số 1.300km2 rạn san hô dọc bờ biển đang trong tình trạng rất tốt; 26% các rạn san hô trong điều kiện tốt; 41% các rạn san hô trung bình, còn lại 31% là các rạn san hô nghèo.

    Ðiều đáng lo ngại đó là hiện có 96% các rạn san hô trên khắp vùng biển cả nước đang hứng chịu tác động từ các hoạt động khai thác của con người, trong đó gần 75% các rạn có mức độ rủi ro cao và rất cao bởi tình trạng khai thác mang tính hủy diệt. Đi cùng với sự suy thoái của san hô là sự biến mất của nhiều loài sinh vật biển quý.

    Lê Chiến, nhà sáng lập Trung tâm Cứu hộ Sinh vật biển SASA, một tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam chuyên giải cứu các sinh vật biển và hồi sinh các rạn san hô bị hư hại tại bờ biển miền trung Việt Nam, cho biết về hiện trạng của san hô Việt Nam, đặc biệt là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ( mass bleaching ):

    “Mass bleaching, tẩy trắng hàng loạt, có nghĩa là tẩy trắng trên một diện rất rộng trên một số loài, đặc biệt là loài tạo dạng quan trọng, những loài có mật độ rất lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành rạn tại Việt Nam, cũng như tại châu Á-Thái Bình Dương nói chung.

    Hiện tại rất nhiều nơi ở Việt Nam, san hô đã bị tẩy trắng hàng loạt. Đấy chính là nguy cơ lớn nhất, chứ còn bây giờ vấn đề phá hoại bởi du lịch không còn là trọng tâm nữa. Hiện chúng tôi ghi nhận hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ở một số tỉnh Nam Trung Bộ như Ninh Thuận, Bình Thuận và vịnh ở Côn Đảo, vịnh Thái Lan, Phú Quốc. Đó là ghi nhận trong khả năng của chúng tôi. Có thể có những tỉnh khác cũng bị như vậy, nhưng chúng tôi chưa có điều kiện để đi khảo sát. Rất may là ở khu vực Trung Trung Bộ và Bắc Trung Bộ thì chưa thấy bị ảnh hưởng, nhưng nhiệt độ nước biển thì hiện cũng khá là cao.”

    Cũng theo anh Lê Chiến, về mặt lý thuyết, có những phương pháp giúp đảo ngược tình trạng tẩy trắng hàng loạt san hô ở Việt Nam, nhưng trên thực tế không đơn giản chút nào:

    “Trong những phương pháp tái tạo san hô, có việc gây dựng vườn ươm con giống san hô ( coral garden ), nếu không thì chỉ là transplantation, tức là di chuyển san hô từ điểm A sang điểm B. Giống như trên hai cánh rừng, một cánh rừng trọc và một cánh rừng xanh. Nếu chúng ta lấy cây bên rừng xanh trồng bên rừng trọc thì hai bên sẽ trở lại một bên là rừng xanh, một bên là rừng trọc. Nếu không có vườn ươm thì sẽ không có con giống để cung cấp. Vườn ươm đó có nhiều yếu tố, thứ nhất là khai thác con giống. Hai là người ta có thể dùng nhiều phương pháp để khiến cho san hô stress liên tục để kích thích nó thích nghi với biến đổi khí hậu toàn cầu. Trên lý thuyết là như vậy, nhưng có rất ít nơi làm được việc đó.

    Chúng ta có thể dùng công nghệ, kỹ thuật và sức người để đảo ngược xu thế, nhưng đó là một việc rất là khó. Trong đợt tẩy trắng san hô vừa rồi, nước Úc đã gánh chịu một cảnh vô cùng thảm hại, khi hàng trăm ngàn km vuông bị tẩy trắng. Về mặt lý thuyết thì chúng ta có thể thích ứng được, nhưng thực tế rất khó mà triển khai.

    Hiện tại chúng tôi cũng đang làm một số mô hình thí điểm cứu hộ san hô bị tẩy trắng, cũng như giúp cho san hô vượt qua được mùa “heat stress”, tức là giai đoạn mà nước biển nóng lên từ 2 tuần đến 1 tháng hoặc 2 tháng. Chúng ta có thể gây dựng những vườn ươm hoặc di dời những vườn ươm. Về mặt kỹ thuật thì có thể, nhưng trên thực tế, trở ngại lớn nhất là kinh phí. Kinh phí cho việc này quá lớn, thậm chí nước Úc còn không làm được, Việt Nam lại càng khó làm.

    Trên lý thuyết, chúng ta có thể di dời toàn bộ rạn san hô đến một địa điểm khác để dưỡng chúng, qua thời điểm nước nóng lên thì chúng ta tái cấy vào khu vực đã dời đi. Nhưng để di chuyển 1 km2, 5 km2, 10 km2 hay hàng trăm km2 là rất khó. Trên thế giới hiện giờ người ta đã lập ra các vườn ươm. Nếu đó là vườn ươm với quy mô nhỏ thì có thể di dời được đến khu vực biển mát hơn hoặc di dời vào khu vực bễ nhân tạo và dùng những thiết bị, những công cụ làm mát nước, duy trì nhiệt độ nước ổn định”.

    Trước quy mô quá lớn tình trạng san hô bị suy thoái, những tổ chức phi chính phủ như SASA từ nhiều năm qua đã nỗ lực tham gia tái tạo các rạn san hô bị suy thoái, nhưng phạm vi hoạt động của họ rất giới hạn, theo lời anh Lê Chiến:

    “Công việc chính của chúng tôi vẫn là tái tạo các rạn san hô. Về kinh phí thì chúng tôi là một tổ chức nghiên cứu và hoạt động thực hành khoa học một cách độc lập, không có tư cách pháp nhân để nhận tài trợ hay hỗ trợ. Toàn bộ kinh phí là do chúng tôi tự chi trả.

    Hiện chúng tôi đang làm tại Đà Nẵng và Phú Quốc. Như tôi đã nói ở trên, rất may là miền Trung Trung Bộ, bao gồm cả Đà Nẵng, Quảng Bình…, chưa bị ảnh hưởng bởi hiện tượng tẩy trắng hàng loạt. Chúng tôi đã hoạt động ở Đà Nẵng từ 10 năm rồi, còn ở Phú Quốc thì chúng tôi mới triển khai được khoảng hơn 1 năm. Vấn đề ở đây là không phải nơi nào bị thiệt hại thì chúng tôi mới đến đó, hay là nơi nào cần thì chúng tôi đến, mà chúng tôi đi được ở đâu thì chúng tôi đi. Nơi nào cũng cần cả. Rạn san hô trên thế giới thì đang ở mức độ suy thoái từ 40 đến 60% một năm. Ở đâu chúng ta cũng đều phải làm cả!”

    Ngay cả việc phục hồi san hô bị tác động của ô nhiễm biển cũng không phải là đơn giản. Theo báo chí trong nước, 8 năm sau sự cố môi trường ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển miền Trung Việt Nam, dự án phục hồi rạn san hô ở vùng biển này vẫn chưa được triển khai xong.

    Sự cố môi trường biển miền Trung xảy ra vào năm 2016 do Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ra đã làm cho hệ động thực vật biển 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các rạn san hô nhiều nơi bị chết, suy thoái mạnh, cần phải được nhanh chóng tái tạo.

    Dự án phục hồi, tái tạo hệ sinh thái thủy sinh và nguồn lợi thủy sản, mặc dù theo quy định phải hoàn thành vào tháng 12/2022, nhưng nay vẫn chưa triển khai thi công. Mãi đến tháng 4/2024, tỉnh Thừa Thiên - Huế mới được thủ tướng phê duyệt cấp 170 tỉ đồng để triển khai dự án thả rạn san hô nhân tạo và trồng, phục hồi rạn san hô. Thật ra đây là lần đầu tỉnh này thực hiện dự án như vậy cho nên gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc tìm ra đủ nguồn giống để trồng và phục hồi san hô.

    Do phương tiện và khả năng còn hạn chế, Việt Nam phải cần đến sự hỗ trợ của quốc tế, chẳng hạn như của Úc, quốc gia cũng đang hứng chịu thảm nạn san hô bị tẩy trắng hàng loạt. Úc vốn nổi tiếng với rạn san hô Great Barrier, hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, bao gồm khoảng 3.000 rạn san hô riêng rẽ và vịnh san hô. Do đó, các chuyên gia nước này có rất nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bảo vệ rạn san hô trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm nguồn nước, đánh bắt cá quá mức.

    Theo báo chí trong nước vào tháng 04/2024, các chuyên gia Úc sẽ đào tạo, hướng dẫn cho 20 nhà khoa học và cán bộ các khu bảo tồn biển Việt Nam nâng cao năng lực, kỹ năng giám sát và quản lý rạn san hô bằng cách ứng dụng công nghệ mới ReefCloud và thiết bị ReefScan. ReefScan là một hệ thống camera dùng để nắm bắt hiện trạng rạn san hô để bảo tồn chúng một cách hiệu quả hơn. Còn ReefCloud là bộ cơ sở dữ liệu lớn dạng mở để quản lý các dữ liệu về rạn san hô.

    Không chỉ đối với Việt Nam mà đối với cả thế giới, việc phục hồi, bảo tồn ngày càng cấp thiết, do tình trạng san hô suy thoái, nhất là hiện tượng san hộ bị tẩy trắng hàng loạt, đã trở nên hết sức nghiêm trọng, sẽ ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, theo cảnh báo của những nhà nghiên cứu như anh Lê Chiến:

    “Trong vòng 50 năm qua, chúng ta đã đẩy những rạn san hô của chúng ta đến bờ vực suy thoái nghiêm trọng. Nhiều hệ quả có thể xảy ra. Nó chỉ mới là giả thuyết khoa học, chưa xảy ra, nhưng chúng ta có thể dùng các luận cứ khoa học, dẫn chứng khoa học để có thể đưa ra một số dự đoán.

    San hô cung cấp sự sống và dung dưỡng sự sống cho từ 25% đến 40% sinh vật từ đáy đại dương. Khi không còn san hô nữa thì 25% cho đến 40% sinh vật này có thể biến mất và điều này sẽ làm sụp đổ toàn bộ mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương. Về sự sụp mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương, lịch sử của hành tinh này đã trải qua 5 lần đại tuyệt chủng. Nó xuất phát từ nhiều lý do, nhưng một trong những hiện tượng đó là sụp đổ chuỗi thức ăn, dẫn đến đại tuyệt chủng dưới đáy đại dương.

    Đại dương của chúng ta không còn là một cái máy tạo oxy nữa, không còn là bộ phận quan trọng trong chu trình carbon của hành tinh này nữa, mà có thể nó trở thành một bể chứa tảo độc. Rạn san hô biến mất là một điều vô cùng nghiêm trọng cho cả nhân loại, chứ không chỉ vấn đề kinh tế của người này, người kia hay nước này, nước kia.

    Đại dương không chỉ là nguồn cung cấp thức ăn, mà nó còn là một cỗ máy sinh học lớn nhất trên hành tinh này để vận hành khí hậu. Nếu không có chu trình carbon dựa trên mạng lưới thức ăn vô cùng phức tạp của các đại dương, thì các đại dương sẽ trở thành một cỗ máy tạo ra CO2 và từ đấy thì nhiệt độ của bầu khí quyển sẽ tăng lên rất là nhiều, Trái đất sẽ nóng lên rất nhanh. Sau quá trình nóng lên rất nhanh như vậy là quá trình dẫn đến kỷ băng hà. Đấy là quy trình gần như là bất biến trong các kỳ đại tuyệt chủng đã từng xảy ra.”

  • Chính sách phi liên kết không phải là hoàn toàn mới nhưng được cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong “ngoại giao cây tre”. Một “di sản” được ông cố vun đắp từ Hội nghị Đối ngoại toàn quốc (14/12/2021) và được coi là một “trường phái đối ngoại” của Việt Nam.

    Nhà nghiên cứu Hoàng Thị Hà tại Singapore, trong một bài viết đăng ngày 24/10/2023 trên trang Fulcrum (1), nhận định “mặc dù thiếu nội dung thực chất, nhưng khái niệm “ngoại giao tre Việt Nam” đã phát triển song song với sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông Trọng khi ông củng cố vị trí nổi bật trong hệ thống lãnh đạo tập thể của Việt Nam trong những năm gần đây. Sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông cũng phụ thuộc vào cơ may địa-chính trị của Việt Nam, khi cả Mỹ và Trung Quốc đều cạnh tranh để kéo Việt Nam về phía họ. Người ta có thể lập luận rằng “ngoại giao cây tre” của ông Trọng xuất phát từ sự tình cờ về mặt địa chính trị của Việt Nam hơn là từ sự đổi mới chính sách”.

    Còn trong một bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 06/06/2024, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý “khái niệm (“ngoại giao cây tre”) là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước” (2). Tuy nhiên, sau 14 năm, đảng Cộng Sản Việt Nam có tổng bí thư mới. Đại tướng Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi lần lượt giữ chức chủ tịch nước và tổng bí thư, ít nhất cho đến Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV, dự kiến diễn ra vào tháng 01/2026.

    Di sản “ngoại giao cây tre” sẽ được tiếp tục như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Vũ Khang, chuyên về an ninh Đông Á, trường Đại học Boston (Boston Collegue), Hoa Kỳ.

    RFI : Đảng Cộng Sản Việt Nam bước sang trang mới sau 14 năm lãnh đạo của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ có thay đổi như thế nào với sự kiện này ? Chiến lược “ngoại giao cây tre” sẽ vẫn được tiếp tục ?

    Vũ Khang : Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ không có thay đổi gì dưới thời của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm vì có hai lý do chính.

    Thứ nhất, ngoại giao Việt Nam từ xưa đến nay vẫn có mục tiêu đầu tiên, đó chính là kiềm chế và trấn an được Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc vẫn đang ổn định nên Việt Nam không có nhu cầu để phải có những thay đổi lớn trong ngoại giao. Nếu Việt Nam có những hành động thay đổi lớn trong chính sách “ngoại giao cây tre”, nhất là Việt Nam muốn mở rộng quan hệ ngoại giao đối với những nước “thù địch” với Trung Quốc thì điều đó có thể khiến Trung Quốc phật lòng. Và trong trường hợp đấy, Việt Nam sẽ phải hứng chịu những đáp trả không cần thiết từ Trung Quốc. Nhưng trong trường hợp hiện nay, Việt Nam với Trung Quốc hoàn toàn không có những lý do gì để hạ quan hệ ngoại giao song phương. Cho nên Hà Nội không có lý do gì để mà thay đổi đường lối “ngoại giao cây tre” hiện giờ.

    Đọc thêm : 2023: Năm thành công của "ngoại giao cây tre" Việt Nam

    Lý do thứ hai, chính sách đối ngoại của Việt Nam từ xưa đến nay vẫn do Bộ Chính Trị quyết định chứ không phải là do một cá nhân, bất kể cá nhân đấy có là tổng bí thư hay là chủ tịch nước đi chăng nữa. Cần phải hiểu rõ là chính mô hình của Bộ Chính Trị này tạo điều kiện cho một tập thể lãnh đạo, ra quyết sách, quyết định của đất nước, chứ không phải là một cá nhân. Cho nên, chừng nào các thành viên còn lại trong Bộ Chính Trị không muốn thay đổi đường lối chính sách “ngoại giao cây tre” hiện giờ thì việc thay đổi nhà lãnh đạo cấp cao nhất là tổng bí thư cũng sẽ không có tác động lớn đối với đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam.

    RFI : Như anh vừa nêu phần nào, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm hiện giờ là nhà lãnh đạo quyền lực nhất Việt Nam nhưng dường như lại không có nhiều kinh nghiệm đối ngoại, điều này có thác động như thế nào đến ngoại giao của Việt Nam, đặc biệt là với Trung Quốc và Hoa Kỳ ?

    Vũ Khang : Thực ra kinh nghiệm đối ngoại không quá quan trọng trong hoàn cảnh hiện nay. Nhất là khi các quyết sách ngoại giao của Việt Nam được thông qua bởi Bộ Chính Trị chứ không phải một cá nhân. Tóm lại, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm có thể không có kinh nghiệm ngoại giao nhiều như những người tiền nhiệm nhưng không có nghĩa là những người đồng chí ở trong Bộ Chính Trị hoặc những nhà hoạch định chính sách dưới quyền của ông Tô Lâm trong nước cũng không có kinh nghiệm ngoại giao nào cả.

    Có thể hình dung ra rằng ông Tô Lâm như là một người đại diện lớn nhất cho chính sách đối ngoại của Việt Nam chứ ông cũng chỉ là một nhân tố quyết định chính sách đối ngoại. Cho nên kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm, mặc dù về tương lai sẽ quan trọng, nhưng hiện giờ trong bối cảnh Việt Nam đang có sự thay đổi lớn về thượng tầng lãnh đạo, thì kinh nghiệm ngoại giao không phải là ưu tiên quan trọng nhất lúc này. Và cần phải nhấn rõ rằng kinh nghiệm ngoại giao cần phải được đúc kết về lâu về dài. Nhiều nhà lãnh đạo, kể cả những tổng thống của Mỹ hay những nước phương Tây khác, khi họ lên chưa chắc họ cũng đã có kinh nghiệm ngoại giao. Nhưng trải qua những lần công tác hay là những cuộc gặp quốc tế, họ dần trở nên bạo dạn hơn và có những tiếp xúc giúp cho họ có thêm kinh nghiệm để đối đáp với những đối tác nước ngoài.

    Điểm tiếp theo, đó là về mặt quan điểm chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam không thay đổi, cho nên đấy mới là điều mà Mỹ với Trung Quốc muốn nghe nhất thời điểm này, hơn là kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm. Bởi vì thực ra Mỹ với Trung Quốc đều hiểu rằng là chừng nào Việt Nam còn duy trì một vị trí trung lập, kinh nghiệm ngoại giao của người đứng đầu hệ thống đảng và nhà nước không quá là quan trọng.

    Đọc thêm : Việt Nam : Ngoại giao cây tre với Trung Quốc mang đặc tính « tân triều cống »RFI : Với nhiều nước Liên Hiệp Châu Âu, đặc biệt là Đức và Slovakia, khủng hoảng ngoại giao liên quan vụ bắt giữ ông Trịnh Xuân Thanh tại Berlin cũng như là những vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, có còn là rào cản trong mối liên hệ với nhà lãnh đạo quyền lực nhất hiện nay không ?

    Vũ Khang : Các nước phương Tây vẫn giương cao ngọn cờ dân chủ, nhân quyền khi có những trao đổi qua lại với chính quyền Việt Nam. Đây cũng là một cách để họ có thể ép Việt Nam phải có những nhượng bộ về ngoại giao. Họ có thể sử dụng những lá bài này để lên án Việt Nam trên trường quốc tế nhằm làm tổn hại uy tín của Việt Nam. Tuy vậy, việc sử dụng ngọn cờ dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong rất nhiều phương thức để phương Tây bảo vệ quyền lợi của họ trong quan hệ với Việt Nam.

    Chính việc dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong nhiều phương thức tạo điều kiện cho phương Tây. Đôi khi họ đặt những quyền lợi cốt lõi của họ, quyền lợi về kinh tế hoặc là quyền lợi về chính trị, lên trên cả những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền. Đơn cử Mỹ chẳng hạn, trong quá khứ, Mỹ cũng đã rất nhiều lần cho thấy là họ cũng không ngần ngại hợp tác, tăng cường quan hệ với nhà nước độc đảng nếu các nhà nước độc đảng đó có chung lợi ích với Mỹ.

    Và chính Liên Hiệp Châu Âu cũng đã đánh tín hiệu với chính quyền của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm là họ coi trọng, muốn hợp tác với chính quyền mới của ông khi phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh, ông Josep Borrell đã đến Việt Nam và dự lễ tang của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sau khi dự lễ tang, ông đã có cuộc gặp với ông Tô Lâm. Chính cuộc gặp với một nhà lãnh đạo mới của Việt Nam cũng khẳng định rằng Liên Hiệp Châu Âu cũng không muốn những hiểu lầm, những sự kiện trong quá khứ làm tổn hại mối quan hệ giữa EU và nhà lãnh đạo mới của Việt Nam.

    Đọc thêm : Liên Hiệp Châu Âu muốn nâng cấp quan hệ với Việt Nam

    Cần phải nói rõ vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu đang ngày càng đi lên, nhất là khi Mỹ và các đồng minh đang nỗ lực chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc đến những nước “bớt thù nghịch hơn” như Việt Nam. Trong hoàn cảnh này, chính Liên Hiệp Châu Âu cũng không có lý do gì để một chuyện trong quá khứ hoặc những vấn đề dân chủ, nhân quyền làm tổn hại tương lai, lợi ích của họ khi chính họ cũng nhìn ra được rằng mở rộng hợp tác kinh tế với Việt Nam đang là xu thế toàn cầu và đang là một xu thế có lợi cho kinh tế của phương Tây.

    RFI : Mới đây, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm đã điện đàm với tổng thống Nga và hai bên khẳng định về mối quan hệ song phương. Trong thời gian tới, mối quan hệ giữa Việt Nam và Nga sẽ đi theo hướng như nào ?

    Vũ Khang : Trước khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, vào tháng 07/2024, ông Tô Lâm đã là người đại diện cho chính quyền Việt Nam đón tổng thống Nga Vladimir Putin. Việc Nga gửi lời trao đổi với ông Tô Lâm trong tuần vừa rồi (ngày 08/08/2024) về việc Việt Nam và Nga muốn tăng cường quan hệ ngoại giao, thực ra không có gì là mới hay bất ngờ bởi vì từ xưa đến nay, chính sách đối ngoại của Nga luôn luôn coi Việt Nam là một trong những đối tác châu Á quan trọng song song với Ấn Độ khi mà Nga và Việt Nam có mối quan hệ quân sự từ rất lâu và quan hệ giữa hai nước chưa bao giờ gặp phải khủng hoảng đến mức trầm trọng như quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ hoặc với Trung Quốc.

    Đọc thêm : Việt Nam không ngại bị chỉ trích khi đón tổng thống Putin bị CPI truy nã vì "tội ác chiến tranh"

    Trong hoàn cảnh Việt Nam cũng nhận thấy rằng “ngoại giao cây tre” cần phải được liên tục phát triển và nhấn mạnh, thông qua việc Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác lớn như Mỹ, Trung Quốc và Nga, việc Việt Nam và Nga có cuộc điện đàm để tái khẳng định chuyến thăm của ông Putin đến Hà Nội là một điều rất bình thường và cũng là một điều nằm trong chính sách đối ngoại “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Sự kiện đó cũng muốn tái khẳng định rằng chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam dưới thời tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sẽ không có gì thay đổi so với thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Vũ Khang, trường Đại học Boston, Hoa Kỳ.

    *******

    (1) Nguyen Phu Trong’s ‘Bamboo Diplomacy’: Legacy in the Making?

    (2) Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước

  • Trong bối cảnh Việt Nam và Philippines phải tăng cường hợp tác để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, giữa hai nước lại nảy sinh một vấn đề cần giải quyết, đó là vấn đề ranh giới ngoài thềm lục địa.

    Ngày 15/06/2024, bộ Ngoại Giao Philippines thông báo phái đoàn nước này tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình Báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông ( mà họ gọi là Biển Tây Philippines ) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) "để đăng ký quyền với vùng thềm lục địa mở rộng ở tây Palawan".

    Philippines cho biết họ đã mất 15 năm để chuẩn bị cho việc này, theo đúng Điều 76 trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Theo Công ước này, một quốc gia ven biển như Philippines có thể “thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa, bao gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, vượt 200 hải lý, nhưng không quá 350 hải lý từ đường cơ sở được dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.

    Vấn đề là vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines muốn được công nhận có thể chồng lấn với những nước ven Biển Đông khác, đặc biệt là Việt Nam.

    Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/07, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại:

    "Theo điều 76 của UNCLOS 1982, mỗi quốc gia sẽ có vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở hướng ra ngoài. Ngoài ra, các quốc gia có thể có vùng thềm lục địa mở rộng có thể tối đa là 350 hải lý. Từ năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa một báo cáo riêng của Việt Nam và một báo cáo chung với Malaysia ngày 06/05 và 07/05. Một ngày sau đó, 08/05, Trung Quốc đã gởi hai công hàm phản đối hai đệ trình đó. Trong hai công hàm đó có kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò".

    Sau đó, đến tháng 12/2019, phía Malaysia lại đệ trình một báo cáo mới về thềm lục địa mở rộng, trong bối cảnh sau phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mới đây nhất phía Philippines cũng tiếp tục đệ trình, theo đúng quy định của điều 76 trong UNCLOS 1982. Nhưng yêu cầu có được chấp thuận hay không thì đó lại là câu chuyện dài hơn rất nhiều.

    Ngay trong đệ trình của Philippines lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, họ cũng đã nói rõ là vùng thềm lục địa mở rộng này của họ có khả năng sẽ chồng lấn với vùng thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và của Malaysia. Mới đây nhất, Malaysia đã gởi công hàm phản đối, bởi vì giữa Malaysia và Philippines vẫn có tranh chấp về vùng Sabah, mà Manila cho là của Philippines, nhưng nay đang thuộc về Malaysia. Vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines yêu sách cũng nằm trong vùng thềm lục địa của Sabah.

    Đối với Việt Nam, một số nhà nghiên cứu khi đo bản đồ cũng đã thấy là một sự chồng lấn. Khả năng chồng lấn với Việt Nam là chắc chắn."

    Phản ứng về quyết định nói trên của Manila, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng ngày 20/06, nhìn nhận quyền của Philippines:

    "Các quốc gia ven biển thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) có quyền xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của UNCLOS 1982.”

    Nhưng phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nhấn mạnh Việt Nam “bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.”

    Đáp lại tuyên bố nói trên của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngày 01/07, bộ Ngoại Giao Philippines cho biết Manila "hoan nghênh" việc Hà Nội công nhận báo cáo của Manila đệ trình lên Liên Hiệp Quốc nhằm bảo đảm quyền của nước này đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông, đồng thời cho biết “sẵn sàng đàm phán với Hà Nội để giải quyết mọi vấn đề”, cũng như sẵn sàng hợp tác với Việt Nam “theo những cách khả thi để giúp đạt được giải pháp cùng có lợi cho các vấn đề ở Biển Đông”.

    Sau đó, ngày 17/07, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam đã chính thức nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc.Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này "sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS".

    Nhưng liệu Việt Nam và Philippines có thể dễ dàng đạt được thỏa thuận để giải quyết sự chồng lấn về thềm lục địa mở rộng giữa hai nước hay không? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định:

    "Chắc chắn là được thôi, khi mà cả hai quốc gia đều có thiện chí thì cũng dễ giải quyết. Việc chồng lấn là bình thường. Trên khu vực Biển Đông có rất nhiều sự chồng lấn. Việt Nam và Indonesia đã mất cả 12 năm để phân định vùng đặc quyền kinh tế. Hai nước đã công bố thỏa thuận qua tuyên bố năm 2022, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy văn bản chính thức Việt Nam và Indonesia phân định như thế nào.

    Giữa Việt Nam với Philippines thì cũng đơn giản, vì thứ nhất là khi hai bên đều đòi hỏi vùng thềm lục địa mở rộng, thì chắc chắn là sẽ có sự chồng lấn và hai bên phải đàm phán. Nếu hai bên đều có thiện chí thì không khó, khó nhất là một bên, hoặc cả hai bên không có thiện chí. Trong đàm phán, hai bên đều phải nhân nhượng với nhau, để cùng chấp nhận một giải pháp hai bên cùng có lợi.

    Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines về hợp tác trên biển cũng đã có từ lâu. Vài năm trước, hai nước đã ký một số thỏa thuận về thăm dò địa chấn, hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Như vậy chủ trương hai bên đều có rồi, vấn đề còn lại là hai bên sẽ phải đàm phán trực tiếp, sẽ phân định như thế nào. Có lẽ đây sẽ là một quá trình khá dài, vì cả hai bên đều phải dựa trên những điều kiện địa lý tự nhiên của mình, đồng thời căn cứ trên luật pháp, cũng như những án lệ trước đây, để tìm ra một giải pháp công bằng nhất".

    UNCLOS quy định thời hạn cuối cùng để đệ trình thông tin về ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) là ngày 13/5/2009. Như vậy tại sao Philippines trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng tại Biển Đông 15 năm sau thời hạn cuối cùng?

    Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đệ trình của Philippines vào thời điểm này có thể có một số tính toán:

    "Cái đầu tiên là liên quan đến Trung Quốc. Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc và Philippines luôn luôn đối đầu ở khu vực biển của mấy thực thể, thứ nhất là Bãi Cỏ Mây, thứ hai là bãi cạn Scarborough và thứ ba là bãi cạn Sa Bin. Đặc biệt ở Bãi Cỏ Mây chúng ta đã thấy tình hình căng thẳng như thế nào. Gần đây nhất là sự kiện 17/06, nhiều tàu của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu của Philippines, các thủy thủ Trung Quốc đã cầm rìu, dao găm và gậy tấn công các thủy thủ Philippines trên tàu của họ, cướp một số vũ khí, cũng như đồ đạc. Xung đột đã khiến một binh sĩ của Philippines bị mất một ngón tay cái.

    Đây không phải là sự kiện đầu tiên cũng như cuối cùng. Từ 2013 tới nay, những vụ va đâm tàu, phun vòi rồng và chiếu tia laser vào các thủy thủ Philippines đã xảy ra rất nhiều. Vào tháng 05/2009, việc Việt Nam và Malaysia đệ trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng đã gây một làn sóng phản đối từ Trung Quốc. Lần thứ hai đó là vào tháng 12/2019, Philippines làm mới lại đệ trình của mình thì cũng đã gây ra cuộc chiến công hàm kéo dài đến 2021 mới chấm dứt. Các quốc gia đã liên tục gởi các công hàm lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để thể hiện quan điểm của mình.

    Có lẽ đó là cái quan trọng mà Philippines tính tới: trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và chính sách của Philippines đang sử dụng là "name and shame", vạch trần những hành động côn đồ và phi pháp của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông tranh chấp, thì Philippines hy vọng là sẽ có một làn sóng của công luận trên thế giới lên án Trung Quốc và điều này sẽ tác động phần nào đến cuộc đối đầu giữa hai nước.

    Ngoài ra, Philippines đương nhiên có những tính toán khác, trong đó có việc nhắc lại tác dụng của phán quyết 2016 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Philippines cũng muốn tranh thủ lúc này Philippines đang có một đại diện trong Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc."

    Trong một bài viết đăng trên trang Vietnamnet ngày 29/06, đại sứ Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, một chuyên gia pháp lý, cũng nhận định:

    "Trước hết, chính quyền tổng thống Marcos Jr. muốn khẳng định giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/6/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết này tạo khả năng cho phép mở rộng thềm lục địa từ các đảo chính của Philippines trong khi làm rõ mỗi thực thể biển ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý.

    Thứ hai, đệ trình có thể nhằm bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc.

    Thứ ba, Manila có thể muốn khẳng định tính pháp lý của đường cơ sở quần đảo Philippines năm 2012, đường này đã được sửa đổi cho phù hợp hơn với UNCLOS.

    Thứ tư, việc đệ trình tạo điều kiện kích hoạt điều 5 của Hiệp ước phòng thủ chung Philippines - Hoa Kỳ 1951, theo đó Mỹ có trách nhiệm bảo vệ các lực lượng vũ trang Philippines, các tàu và máy bay công vụ (bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển) khỏi các cuộc tấn công vũ trang trong Biển Đông.

    Thứ năm, đệ trình có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) đang gặp bế tắc."

    Nhưng theo ông Nguyễn Hồng Thao, tranh chấp chủ quyền các thực thể trong quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại sẽ làm nảy sinh tiếp vấn đề phân định biển của các vùng đáy biển thuộc lãnh hải của các thực thể này với yêu sách thềm lục địa mở rộng của Philippines.

    Ấy là chưa kể đến phản ứng của Trung Quốc. Ngày 18/07/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa mở rộng "bao gồm một phần quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) của Trung Quốc và xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, trái với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển".

    Trước đó, ngày 17/6/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã khẳng định “đệ trình đơn phương của Philippines về mở rộng thềm lục địa của họ tại Biển Đông xâm phạm tới các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, vi phạm luật quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”.

  • Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời ngày 19/07/2024, chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, tạm giữ chức tổng bí thư, câu hỏi đang được đặt ra là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “chiến dịch đốt lò”, do ông Trọng phát động rồi sẽ đi đến đâu? Cùng với cuộc chiến chống tham nhũng, đấu đá trong nội bộ Đảng để giành chiếc ghế lãnh đạo tối cao sẽ diễn ra như thế nào từ đây đến Đại Hội Đảng năm 2026?

    RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, về chủ đề này.

    RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, trước hết điểm lại những gì mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong cuộc chiến chống tham nhũng do chính ông phát động kể từ khi lên lãnh đạo Đảng cách đây hơn 1 thập niên, anh nhận thấy có những điểm gì đáng ghi nhận?

    Lê Hồng Hiệp: “Có thể nói thành tựu quan trọng nhất của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại chính là đã phát động và dẫn dắt thành công một chiến dịch chống tham nhũng có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” nhắm vào các quan chức thuộc mọi cấp bậc.

    Từ năm 2011, khi bắt đầu nắm chức tổng bí thư, ông đã bắt đầu phát động chiến dịch này, nhưng do một số trở ngại, đặc biệt là có sự lãnh đạo chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng thời bấy giờ, vai trò của Đảng và của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc chống tham nhũng còn hạn chế. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, khi ông Trọng đã củng cố được quyền lực, chiến dịch này đã tăng tốc rất mạnh, tạo ra một làn sóng thanh lọc trong nội bộ Đảng.

    Từ 2016 đến nay, có khoảng 139 ngàn đảng viên đã bị kỷ luật, trong đó có hơn 40 ủy viên Trung ương Đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 2021 đến nay, có 7 ủy viên Bộ Chính Trị, trong đó có những vị trong “tứ trụ”, như chủ tịch nước Võ Xuân Phúc, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và nguyên Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai đã bị buộc phải thôi nhiệm vụ vì các lý do khác nhau liên quan đến các vụ tham nhũng. Để so sánh thì chúng ta thấy là từ 1986 đến 2016, không có một ủy viên Bộ Chính Trị nào bị cách chức vì tham nhũng, chỉ có 9 ủy viên Trung ương Đảng bị kỷ luật vì các vi phạm liên quan đến tham nhũng.

    Trong cương vị tổng bí thư, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông Trọng là bảo vệ sự sinh tồn của Đảng, cũng như duy trì vai trò cầm quyền của Đảng. Ông luôn tâm niệm tham nhũng là mối đe dọa đối với sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của Đảng, chính vì vậy ông luôn nhấn mạnh chống tham nhũng là biện pháp để duy trì vai trò của Đảng. Tham nhũng đã ăn rất sâu ở Việt Nam và đã gây tác hại rất lớn, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xảy ra nhiều vụ tham nhũng mà cho tới nay người ta vẫn phải mất rất nhiều công sức để giải quyết hậu quả.

    Bản thân ông Trọng cũng có nhu cầu dùng chiến dịch chống tham nhũng này để nâng cao vai trò kiểm soát của Đảng, đặc biệt là sau thời kỳ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn mà vai trò của bên chính phủ đã lấn át vai trò của lãnh đạo Đảng. Cuộc chiến chống tham nhũng này cũng là một cách để giúp khôi phục vai trò kiểm soát của Đảng trong hệ thống chính trị. Qua đó gián tiếp củng cố vai trò, quyền lực cá nhân của ban lãnh đạo Đảng, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng."

    RFI: Như vậy những yếu tố nào đã giúp ông Nguyễn Phú Trọng có thể mạnh tay như thế trong chiến dịch chống tham nhũng?

    Lê Hồng Hiệp: "Ông Trọng hơi khác chút so với các lãnh đạo khác đó là ông được tiếng trong sạch thanh liêm, trong quá trình vươn lên nắm quyền, ông không dính vào các bê bối tham nhũng, ít nhất là cho đến lúc này. Chính vì vậy là ông có thẩm quyền đạo đức, có tiếng nói đủ lớn để có thể dẫn dắt cuộc chiến chống tham nhũng này mà không gặp sự kháng cự, không có các điểm yếu mà các đối thủ của ông có thể khai thác.

    Mặt khác, ông cũng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ, hợp tác của một bộ phận lãnh đạo, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới bộ Công An và những cơ quan giúp thực thi chiến dịch này. Đặc biệt là ông Trọng đã đóng vai trò trong Đảng ủy Công an Trung ương, một vai trò mà các tổng bí thư trước ông Trọng chưa từng có, kiểm soát bộ Công An thành một công cụ hiệu quả trong việc chống tham nhũng. Nhờ vậy mà ông Trọng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến dịch chống tham nhũng cho đến nay. Di sản đó được duy trì đến đâu trong thời gian tới? Đó vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.”

    RFI: Tuy chủ trương “Diệt chuột không để vỡ bình”, nhưng ta đã thấy là trong thời gian qua, kể cả các ủy viên Bộ Chính Trị cũng bị kỷ luật, bị cách chức. Vậy thì chiến dịch chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng phát động đã có tác động như thế nào đến thượng tầng lãnh đạo của Đảng?

    Lê Hồng Hiệp:“Diệt chuột không để vỡ bình tức là không để ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chế độ, không để những người mà Đảng xem là “các thế lực thù địch”, hoặc những người chống đối vai trò lãnh đạo của Đảng “lợi dụng” để làm suy yếu Đảng. Chính vì vậy mà trong quá trình chống tham nhũng, thay vì nâng cao vai trò của báo chí, xã hội dân sự, những thành phần có thể đóng góp vào cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách phơi bày các quan chức tham nhũng, thì trong thời kỳ vừa qua, Đảng đã thắt chặt kiểm soát đối với báo chí và xã hội dân sự. Đảng muốn chống tham nhũng theo cách của Đảng và các biện pháp được thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát của Đảng, không thể ảnh hưởng đến an ninh chế độ.

    Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng những tác dụng phụ nhất định: Ngoài việc thắt chặt đối với không gian công cộng, không gian xã hội dân sự, không gian tự do báo chí ở Việt Nam, khi người ta nhấn mạnh đến chống tham nhũng, trong một số trường hợp, cuộc chiến chống tham nhũng biến thành công cụ tranh giành quyền lực hoặc thanh lọc các đối thủ chính trị. Rất nhiều lãnh đạo, kể cả trong “tứ trụ”, đã bị loại bỏ, bị thay thế, dẫn đến biến động trong cấu trúc thượng tầng lãnh đạo của đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, họ sẽ không cho phép những biến động này ảnh hưởng tới an ninh của chế độ.

    Một tác dụng phụ khác, đó là cuộc chiến chống tham nhũng này cũng tạo ra cảm giác bất an, xuống tinh thần, trong một bộ phận cán bộ, công chức, thể hiện qua việc họ thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, hay tránh đưa ra các quyết định về các dự án hay các quyết định đầu tư, do lo sợ trách nhiệm về mặt pháp lý khi đưa ra các quyết định mà sau này có thể bị coi là có vi phạm, ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị của họ. Việc đùn đẩy trách nhiệm, né tránh ra quyết định cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.

    Về lâu dài, những biến động về chính trị và trì trệ về kinh tế cũng là những thách thức mà Đảng không thể bỏ qua, trong ngắn hạn không phải là vấn đề, nhưng nếu nó kéo dài quá lâu thì sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, ổn định chính trị của đất nước và làm giảm uy tín của Đảng. Chính vì vậy, tôi nghĩ trong tương lai có thể họ sẽ phải có một số điều chỉnh, không để các tác dụng phụ này kéo dài, ảnh hưởng quá lớn đến vai trò, uy tín của Đảng, cũng như sự phát triển của đất nước.”

    RFI: Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, Bộ Chính Trị đã giao cho ông Tô Lâm tạm nắm quyền tổng bí thư, không biết ông sẽ nắm chức vụ này đến lúc nào, nhưng có vẻ như ông Tô Lâm đang có lợi thế rất lớn để tranh chức tổng bí thư sau này. Liệu có nguy cơ là kể từ nay ông có toàn quyền để tiếp tục chống tham nhũng nhưng là để củng cố thế lực cá nhân của ông?

    Lê Hồng Hiệp: “Hiện tại ông Tô Lâm có một số lợi thế trong việc kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên việc bầu ông Tô Lâm hay ai đó thì vẫn còn phải chờ quyết định của Bộ Chính Trị và Trung ương Đảng. Tuy nhiên, bất kể ai được bầu chọn thì cũng sẽ tiếp tục cuộc chiến chống tham nhũng này. Lý do thứ nhất đó là di sản ông Nguyễn Phú Trọng để lại quá lớn. Người kế nhiệm ông Trọng không thể làm ngơ trước di sản đó, không thể một sớm một chiều lật ngược di sản đó. Di sản quan trọng nhất của ông là chống tham nhũng, vì vậy người kế nhiệm sẽ gặp áp lực rất lớn, không thể không tiếp tục cuộc chiến này, để thể hiện tính chính danh của Đảng, cũng như của bản thân người đó.

    Thứ hai, bản thân người kế nhiệm cũng thấy có lợi ích trong việc duy trì cuộc chiến chống tham nhũng này, cụ thể là sẽ tiếp tục sử dụng nó như một công cụ hiệu quả để kiểm soát nội bộ và có thể hướng tới kiểm soát các đối thủ chính trị, thông qua việc thanh trừng những người có thể là nguy cơ đối với quyền lực của họ. Cuộc chiến chống tham nhũng này vẫn sẽ tiếp tục dưới thời lãnh đạo mới. Vấn đề đặt ra là cách thức tiến hành của họ sẽ như thế nào, quy mô, cũng như cường độ của cuộc chiến sẽ ra sao.

    Có thể sẽ có một số điều chỉnh, ví dụ như họ có thể có những sáng kiến mới để vừa duy trì được nhiệm vụ chống tham nhũng, vừa hóa giải được một số thách thức về phát triển kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu của nhà lãnh đạo mới, tức là vừa duy trì được quyền lực, vừa có thể chống tham nhũng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như duy trì được sự ổn định trong thượng tầng kiến trúc của hệ thống chính trị. Liệu ông Tô Lâm, hay một ai đó, có sẽ thay đổi cách tiếp cận hay không? Chúng ta hãy chờ xem.”